Khởi nghĩa Nam Kỳ - biểu tượng của ý chí quật cường dân tộc

Hoài An (t.h)| 23/11/2017 09:51

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng từ ngày 6/11 đến 8/11/1939 tại Bà Ðiểm (Hóc Môn) đã xác định: Trong hoàn cảnh mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của các dân tộc Ðông Dương.

Ðến giữa tháng 11/1940, trước tình hình phong trào cách mạng sôi sục, tinh thần phản chiến trong binh lính người Việt lên cao, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 21/11/1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ đảng nhất loạt phát động nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940.

Khu vực Chợ Lớn TP. Hồ Chí Minh hôm nay. Ảnh tư liệu

Đêm 22, rạng sáng ngày 23/11/1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nam Kỳ, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ đồng loạt tại 20 tỉnh và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, trong đó có 56/75 quận, 50% số làng.với tinh thần quyết liệt, khí thế tiến công mạnh mẽ ở khắp các tỉnh thành: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên, Bến Tre, Sa Đéc, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Bà Rịa, Vũng Tàu.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ kéo dài từ đêm 22 rạng sáng 23/11 đến ngày 31/12/1940, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Quần chúng các làng nổi trống mõ; trong đó có tiếng mõ Nam Lân (Bà Điểm) nổi lên khắp nơi, nhiều người với khí thế sôi sục kéo đến, lính giữ đồn một số nơi run sợ phải rút chạy.

Khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Thực dân Pháp đã đàn áp, khủng bố dã man, khốc liệt những người khởi nghĩa. Hàng nghìn đồng bào, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đã bị địch bắt, tra tấn, tù đày, giết chóc vô cùng tàn bạo với bao tổn thất.

Chúng đã dùng máy bay dội bom xuống làng mạc, thôn xóm và khủng bố dã man với thủ đoạn “cướp sạch, đốt sạch, giết sạch”, xóm làng tang thương, lòng căm thù giặc ngút trời trong lòng người dân. Chỉ trong 40 ngày, riêng bốn tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Long Xuyên và Cần Thơ có tới 5.640 người bị giặc lấy dây thép xâu tay rồi phơi nắng cho đến chết khô, hoặc chất lên sà lan đưa ra biển nhận chìm...

Tại các trường bắn do thực dân Pháp lập ra, nhiều đồng chí, đồng bào, chiến sĩ ta đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù. Ngày 28/8/1941, thực dân Pháp đã có một cuộc tàn sát quy mô lớn: các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của dân tộc, của Đảng như: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập; đồng chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên Thường vụ Trung ương; các đồng chí Ủy viên Trung ương Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến; đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Xứ ủy viên kiêm Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Gia Định đã bị địch xử bắn. Tấm gương hy sinh dũng cảm của các đồng chí mãi mãi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ có ý nghĩa rất to lớn. Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ “là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Ðông Dương”. Nó đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân các tỉnh Nam bộ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập.

Ngày 14/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 163 - SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất cho Ðội quân khởi nghĩa Nam bộ. Sắc lệnh ghi: “Đội quân khởi nghĩa Nam bộ năm 1940 đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với địch và đã biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc”. Ðó là sự khắc ghi của dân tộc đối với công lao và sự hy sinh của quân và dân Nam Kỳ.

Từ trong tiến trình chuẩn bị và diễn ra khởi nghĩa, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được đề cập trong truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” được viết trên các băng rôn treo trước trụ sở các Ủy ban cách mạng ở Long Hưng, ở Vĩnh Kim (Mỹ Tho).

Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong khởi nghĩa Nam Kỳ đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu tượng của tinh thần và ý chí đấu tranh cách mạng của nhân dân Nam Kỳ. Ngọn cờ đỏ sao vàng sau đó đã được Ðảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn làm biểu tượng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và đến ngày 9/11/1946, chính thức là “cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được ghi trong Hiến pháp thông qua tại kỳ họp Quốc hội thứ hai (khóa I).

Khởi nghĩa Nam Kỳ đã có tiếng vang lớn, không những trong nước mà còn làm nức lòng cả những chiến sĩ cách mạng ở Pháp. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, Đảng Cộng sản Pháp đã gửi đến Đảng Cộng sản Đông Dương một bức thư, trong đó có đoạn: “Chúng tôi cúi đầu trước vong linh những người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã hy sinh hồi tháng 11 dưới súng liên thanh của Decoux, Beaudouin, Pétain… Chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước những người anh hùng đó, đặc biệt, chúng tôi nghiêng mình trước những anh chị em ruột thịt anh hùng là đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương”.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Khởi nghĩa Nam Kỳ - biểu tượng của ý chí quật cường dân tộc
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO