Phần thứ nhất: Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 - 2015

29/07/2015 17:10

Nhiệm kỳ qua, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới suy thoái kéo dài; bất ổn chính trị, chiến tranh cục bộ xảy ra ở nhiều nơi; tranh chấp chủ quyền trên biển Đông diễn ra với tính chất ngày càng phức tạp hơn.

Tình hình kinh tế trong nước ngay từ đầu nhiệm kỳ đã xuất hiện nhiều vấn đề khó khăn, Trung ương đã kịp thời điều chỉnh các ưu tiên, đưa các nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội lên hàng đầu; thực hiện các chính sách thắt chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư công, hạ trần lãi suất cơ bản ở mức cao, hạn chế tăng trưởng.

Ở tỉnh ta còn chịu tác động mạnh bởi những đặc điểm riêng của một tỉnh mới thành lập, bên cạnh những thuận lợi, tiềm năng lợi thế thì nổi lên là hạ tầng kỹ thuật, nhất là giao thông còn yếu kém; tình trạng dân nghèo di cư tự do và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất vùng; trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực thấp; an ninh chính trị phức tạp và luôn thường trực các yếu tố gây bất ổn định; các thế lực thù địch âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”… Trong tình hình đó, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đã tranh thủ thời cơ, phát huy tiềm năng, lợi thế; vượt qua khó khăn, thách thức để thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X.

A- KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU TRONG NHIỆM KỲ 2010 - 2015

Trong 13 chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội; quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị mà Nghị quyết Đại hội X đề ra, 7 chỉ tiêu đạt và vượt; 3 chỉ tiêu xấp xỉ đạt và 3 chỉ tiêu không đạt. Nhìn chung, kết quả tổng hợp khá toàn diện trên các mặt, cả về kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Phát triển đúng hướng, tiềm năng lợi thế bước đầu được khơi dậy, những nhược điểm và khó khăn được khắc phục, sát với thực tiễn, tình hình của tỉnh.

Các chỉ tiêu không đạt đó là, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2010-2015 chỉ đạt 12,62/15%, nguyên nhân chủ yếu không thực hiện được mục tiêu này chủ yếu là do dự báo chưa sát (Nhà máy Alumin Nhân Cơ không hoàn thành đúng tiến độ nên tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân chỉ đạt 16,83/25,07%. Mặt khác do những khó khăn chung của nền kinh tế tăng trưởng bình quân, tổng mức đầu tư xã hội giai đoạn 2010 - 2015 chỉ đạt 17,3/30%/năm nên cũng làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và việc điều chỉnh giảm thu hoặc bãi bỏ 5 sắc thuế cùng với khả năng dự báo, quản lý nguồn thu và tổ chức thu chưa thật tốt đã làm cho tốc độ tăng thu ngân sách bình quân chỉ đạt 10,3%/23%). Các chỉ tiêu về văn hóa không đạt là do quy định mới cao hơn so với thời điểm xây dựng Nghị quyết Đại hội; bên cạnh đó nguyên nhân chủ yếu là do sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện của một số cấp ủy và hệ thống chính trị chưa năng động sáng tạo, năng lực hạn chế của cán bộ, điều kiện và cơ chế chính sách chưa phù hợp, không kịp thời.

B- PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

I- VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - HẠ TẦNG

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được chú trọng, đã điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và thường xuyên chỉ đạo việc lập, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các huyện, thị, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực đến 2020 và tầm nhìn đến 2030. Công tác quy hoạch xây dựng chung, quy hoạch chi tiết đô thị và nông thôn được tăng cường, nhất là các đô thị hạt nhân như Gia Nghĩa, Kiến Đức, Đắk Mil. Công tác quản lý quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, quản lý đầu tư đã được các cấp, các ngành quan tâm tổ chức thực hiện; bước đầu có nhiều đổi mới, hiệu quả.

Việc quản lý, khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường có nhiều tiến bộ. Cấp ủy đã kịp thời ra các nghị quyết chuyên đề, thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo chấn chỉnh, khắc phục yếu kém. Công tác tuyên truyền, giáo dục được tăng cường; nhận thức của các ngành, các cấp được nâng lên. Công tác thẩm định hồ sơ, giải quyết các thủ tục về giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy phép khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản đảm bảo đúng pháp luật. Đến nay đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 95,7% tổ chức, đơn vị; 99,06% hộ gia đình, cá nhân có đủ điều kiện; điều chỉnh quy hoạch thủy điện, ngăn chặn và hạn chế nạn phá rừng, tổ chức lại việc quản lý, sử dụng đất rừng và đất nông nghiệp; xử lý nghiêm vi phạm và bảo vệ môi trường, đảm bảo định hướng phát triển bền vững.

Xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thịlà một trong 3 đột phá chiến lược của tỉnh được lãnh đạo tập trung và đã có kết quả bước đầu đáng kể. Hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng, nhất là các tuyến giao thông chính, hạ tầng kỹ thuật đô thị và nông thôn. Giao thông kết nối khá hoàn chỉnh từ xã đến tất cả các huyện, thị, tỉnh lỵ. Hệ thống điện được chú trọng cải tạo, nâng cấp, xây mới; cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất, đời sống. Mạng lưới viễn thông phủ sóng rộng, chất lượng đảm bảo. Hệ thống cấp nước cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và phục vụ sản xuất. Hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn, rác thải đã được chú ý đầu tư xây dựng. Phát triển đô thị được chú trọng thực hiện đồng bộ ở tất cả các khâu lập, quản lý và thực hiện quy hoạch. Nhiều khu dân cư đô thị đã được đầu tư hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, khang trang bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Hệ thống đường giao thông, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, công viên, vườn hoa, cây xanh trong các đô thị được quan tâm đầu tư chỉnh trang, nâng cấp. Công tác quản lý, xây dựng nếp sống văn minh đô thị được chú trọng và có chuyển biến tích cực. Đến nay đã có thị xã Gia Nghĩa được công nhận đô thị loại III, thị trấn Kiến Đức và Đăk Mil được công nhận là đô thị loại IV.

Sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh, vừa mở rộng diện tích, đồng thời theo hướng ngày càng đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, sản xuất hàng hóa, sản phẩm có giá trị cao và lợi thế cạnh tranh của vùng. Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được ban hành kịp thời, đúng hướng và bước đầu đi vào cuộc sống, được đông đảo nhân dân và doanh nghiệp triển khai thực hiện, làm thay đổi tư duy, tập quán canh tác trên nhiều loại cây trồng, vật nuôi; nhiều mô hình sản xuất đã ứng dụng rộng rãi các tiến bộ về công nghệ sinh học, cơ giới hóa, tự động hóa; tổ hợp tác, hợp tác xã được quan tâm củng cố, phát triển, đã góp phần đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng được chú trọng, mỗi năm trồng mới được 1.500 ha rừng. Hệ thống khuyến nông được xây dựng và củng cố, kiện toàn tương đối hoàn chỉnh trở thành lực lượng nòng cốt trong việc chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Giá trị sản xuất trên 01 ha đất nông nghiệp đã tăng từ 45 triệu đồng (2010) lên 70 triệu đồng (năm 2015). Sản xuất hàng hóa nông sản với quy mô ngày càng lớn, sản phẩm nông nghiệp đa dạng, một số sản phẩm bắt đầu đã có thương hiệu, chất lượng được đánh giá cao, như: khoai lang Tuy Đức, quả có múi ở Đắk Glong, hạt tiêu ở Đắk Song, cà phê Đức Lập ..v.v..

Kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác được phát triển ở nhiều nơi, là tiền đề để hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có sức cạnh tranh tốt, góp phần quan trọng vào kết quả công tác xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững và ứng dụng rộng rãi những tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp. Cấp ủy và chính quyền các cấp đã chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; hệ thống hạ tầng kỹ thuật ở nhiều khu vực nông thôn đã được đầu tư xây dựng; nhất là hệ thống đường giao thông, điện, hạ tầng văn hóa – xã hội…đã làm cho diện mạo khu vực nông thôn thay đổi đáng kể.

Sản xuất công nghiệp tăng khá, thương mại dịch vụ có bước phát triển nhanh. Giá trị gia tăng lĩnh vực công nghiệp năm 2015 đạt 2.494 tỷ đồng, tăng 2,2 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 16,8%. Trong điều kiện kinh tế khó khăn chung, lĩnh vực công nghiệp duy trì tăng trưởng ổn định đã góp phần đáng kể vào quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Nhà máy Alumin - Nhân Cơ đã hoàn thành cơ bản ở giai đoạn sản xuất thử, nhà máy điện phân Nhôm đã khởi công và đang đảm bảo tiến độ xây dựng, việc nghiên cứu ứng dụng để sản xuất sắt từ bùn đỏ đã đạt tiêu chuẩn công nghệ mở ra cho tiềm năng lớn của ngành công nghiệp khai khoáng và chế biến có sự phát triển mang tính bước ngoặc, là cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và công nghiệp sau nhôm trong những năm tới. Công nghiệp sản xuất và phân phối điện dần đi vào ổn định, chất lượng dịch vụ cung cấp điện ngày càng được nâng lên. Công nghiệp chế biến, nhất là chế biến nông lâm sản từng bước phát triển, giá trị sản xuất không ngừng được tăng lên. Đã tăng 150 cơ sở sản xuất công nghiệp so với đầu nhiệm kỳ, xây dựng thêm khu công nghiệp mới ở Nhân Cơ với quy mô 148 ha; một số cụm công nghiệp đã được triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng. Về cơ bản lĩnh vực công nghiệp ngày càng khẳng định vị trí về thế mạnh lớn nhất trong kinh tế, phát triển đúng hướng trong cơ cấu kinh tế chung của tỉnh, có triển vọng lớn.

Tổng mức bán lẻ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 17,6% và 22,87%. Các dịch vụ tài chính ngân hàng, viễn thông, vận tải, khách sạn và các dịch vụ công đều có bước phát triển đáng kể. Đến nay đã có 8/8 huyện, thị xã và 41/71 xã có chợ nông thôn. Hệ thống các đại lý bán buôn, bán lẻ được hình thành rộng khắp ở các thị trấn, thị tứ nên việc mua bán, luân chuyển hàng hóa ngày càng thuận lợi. Hệ thống các tổ chức tín dụng được mở rộng, tăng trưởng tín dụng bình quân hằng năm đạt 21%, tổng dư nợ năm 2015 đạt 12.800 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của các ngành dịch vụ được đầu tư tăng cường mạnh, chất lượng các dịch vụ cơ bản được cải thiện đáng kể.

Hệ thống các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế hợp tác ngày càng phát triển. Việc điều chỉnh các chính sách thu hút đầu tư theo hướng ngày càng ưu đãi nhiều hơn cho nhà đầu tư; đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư; đẩy mạnh cải cách hành chính. Đến nay, toàn tỉnh có 3.217 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, trong đó có 1.889 doanh nghiệp đang hoạt động với nguồn vốn đăng ký bình quân 8,81 tỷ/01 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp lớn đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh và mũi nhọn kinh tế của tỉnh, như: sản xuất Alumin, Nhôm, chăn nuôi đại gia súc, chế biến lâm sản, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông..., một số doanh nghiệp có trình độ ứng dụng công nghệ cao, khả năng về vốn, thị trường, có khả năng đóng vai trò hạt nhân trong phát triển chung. Các hợp tác xã, tổ hợp tác đang dần được đổi mới; hoạt động, phát triển theo hướng thị trường. Nhiều dự án ODA được thiển khai với quy mô lớn, mục tiêu phát triển nông thôn, giảm nghèo bền vững, phát triển cộng đồng, nhất là vùng sâu, biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số...đã hình thành một số mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới như: nhóm đồng sở thích, nhóm tiết kiệm tín dụng đã hoạt động có hiệu quả, có độ tin cậy.

Bên cạnh các kết quả trên, lĩnh vực kinh tế - hạ tầng còn có những hạn chế, khuyết điểm đáng chú ý sau đây:

Chất lượng, tính khả thi thực hiện quy hoạch thấp; quy trình trong lập quy hoạch chưa đảm bảo nên sự đồng tình và ý thức chấp hành quy hoạch của nhân dân chưa cao; khả năng quản lý quy hoạch của các cấp chính quyền còn hạn chế.

Quản lý tài nguyên, khoáng sản chưa hiệu quả, còn lãng phí lớn, nhất là quản lý rừng và đất rừng, hằng năm rừng bị mất vẫn nhiều hơn rừng trồng thay thế, độ che phủ rừng thấp hơn mức che phủ rừng bình quân của cả nước (39/42%), trong khi đó mật độ dân số của tỉnh Đắk Nông chưa bằng 1/3 của cả nước (83/268 người/01 km2). Quản lý tài nguyên đất, nhất là đất lâm nghiệp không hiệu quả làm phát sinh các mâu thuẫn xã hội; dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện, kể cả vi phạm pháp luật hình sự. Nông nghiệp chưa được quy hoạch phát triển bền vững theo định hướng lâu dài dẫn đến tình trạng tự phát, bất ổn định của thị trường.

Hạ tầng kỹ thuật đã được ưu tiên cao nhưng giao thông vẫn còn trong tình trạng khó khăn; đường xá xuống cấp nhanh nhưng bảo dưỡng, sửa chữa không kịp thời. Hạ tầng kỹ thuật đầu tư chưa được nhiều. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng quy mô nhỏ bé, công nghệ lạc hậu (76% máy móc, dây chuyền công nghệ được sử dụng từ thập niên 50 của thế kỷ trước). Công nghiệp chế biến nông - lâm sản phát triển chậm, chưa khai thác được chuỗi giá trị từ các loại sản phẩm nông nghiệp mà tỉnh đang có thế mạnh; công nghiệp chế tạo chưa đáp ứng được nhiều cho mục tiêu phát triển công nghiệp công nghệ cao. Các khu, cụm công nghiệp chưa được lấp đầy, gây lãng phí đất đai, vốn đầu tư.

Các hoạt động dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; các hoạt động tài chính, tín dụng, thương mại vẫn chưa bắt kịp được trình độ chung của cả nước; chưa đủ sức khơi thông, tập trung và phân phối hợp lý các nguồn lực phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; chưa có các phương thức phân phối hàng hóa, phương thức huy động và phân phối các nguồn vốn. Hoạt động du lịch chủ yếu mới dựa vào thiên nhiên, chưa có đầu tư gì đáng kể. Các hoạt động phục vụ học tập, đào tạo, bảo vệ chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu học tập của xã hội cũng như niềm tin của nhân dân. Hệ thống doanh nghiệp vừa ít, vừa yếu kém, nhỏ bé, sản phẩm chứa hàm lượng kỹ thuật còn thấp, sức cạnh tranh yếu.

II- VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI; KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Quy mô giáo dục đào tạo tăng mạnh, mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng ở các cấp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ cấu đào tạo, giáo dục nghề có bước phát triển. Có thêm nhiều điểm trường lẻ ở các vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh đến trường. Hệ thống trường, lớp ngày càng hoàn chỉnh, cơ sở vật chất trường, lớp được cải thiện đáng kể; từng bước thực hiện xóa phòng học tạm, phòng học mượn hoặc thiếu công trình vệ sinh, nước sạch. Trang thiết bị các phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, thực hành cơ bản đáp ứng được việc dạy và học. Công tác xã hội hóa giáo dục bước đầu đạt một số kết quả, đã huy động được các nguồn lực xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được chú trọng, đến năm 2015, đã có 83/356 trường (23,31%) đạt chuẩn ở các cấp học. Quản lý giáo dục có chuyển biến tích cực, việc đổi mới phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường trở nên phổ biến và có hiệu quả hơn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng đội ngũ quản lý giáo dục và giáo viên. Tập trung thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng giáo viên và học tập cho học sinh dân tộc thiểu số các cấp, chú trọng nâng cao khả năng Tiếng Việt, bồi dưỡng học sinh yếu kém. Hoàn thành công tác phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi, duy trì kết quả và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và Trung học cơ sở, phát triển trường chuyên và dạy nghề.

Hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được nâng lên, cơ sở vật chất y tế được chú trọng đầu tư nâng cấp. Công tác khám chữa bệnh ngày càng được chú trọng, chất lượng điều trị và dịch vụ y tế được cải thiện; từng bước triển khai và mở rộng các dịch vụ y tế kỹ thuật cao. Thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong khám chữa bệnh và bảo hiểm y tế; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng chính sách xã hội khám bệnh, cấp thuốc bằng bảo hiểm y tế. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế tính đến năm 2015 đạt 71,5%, thực hiện tích cực chủ trương mở rộng đối tượng bảo hiểm y tế theo lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai tích cực, kịp thời; dịch bệnh được kiểm soát, không có dịch lớn xảy ra. Công tác thanh tra, kiểm tra thuốc, cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng.

Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở được đầu tư nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; đầu tư nâng cấp trang thiết bị bệnh viện Đa khoa tỉnh, đưa vào sử dụng 5 bệnh viện đa khoa tuyến huyện quy mô từ 50 đến 150 giường bệnh; kinh nghiệm, năng lực, trình độ của đội ngũ y, bác sỹ ngày càng được nâng cao; đã ban hành các chính sách trong thu hút, sử dụng, ưu đãi cán bộ trong ngành. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Công tác xã hội hóa y tế đạt được nhiều kết quả.

Các hoạt động văn hóa thông tin đã góp phần tích cực vào việc tuyên truyền giáo dục, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng. Thiết chế văn hóa ở các cấp được tăng cường; các hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử đã được tích cực thực hiện; các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ đã chú trọng nhiều hơn đến nội dung tư tưởng, chất lượng nghệ thuật. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được phát triển ở nhiều nơi, đa dạng, phong phú. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được đẩy mạnh và phát triển rộng rãi.

Các hoạt động văn học nghệ thuật đã có những đổi mới và phát triển phong phú, đa dạng có chất lượng, phản ánh sinh động về truyền thống đấu tranh cách mạng, lao động sáng tạo của nhân dân, có nhiều tác phẩm tốt trong nhiều loại hình nghệ thuật; góp phần tích cực đấu tranh phê phán những tiêu cực, lạc hậu, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Đội ngũ văn nghệ sỹ được rèn luyện, trưởng thành và có tâm huyết.

Phong trào thể thao quần chúng phát triển nhanh với nhiều hình thức; quần chúng nhân dân tham gia luyện tập thể thao ngày càng nhiều; thể thao thành tích cao được chú trọng đầu tư và đã đạt được các kết quả đáng khích lệ. Công tác xã hội hóa văn hóa, thể dục thể thao đạt kết quả bước đầu; thu hút được các thành phần xã hội đầu tư; đa dạng hóa các nguồn lực xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tập luyện thể dục thể thao, nâng cao thể lực của nhân dân.

Hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình tiếp tục phát triển; có nhiều cải cách và đổi mới trong tiếp cận, phân tích, phản ánh kịp thời những vấn đề của xã hội; nội dung ngày càng phong phú, góp phần phục vụ tốt nhu cầu nâng cao nhận thức, trình độ dân trí, phát triển xã hội của nhân dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị từng bước được hoàn thiện; đầu tư nhiều trang web quản lý, nâng cao chất lượng các chương trình, đưa chương trình truyền hình Đăk Nông lên sóng vệ tinh Vinasat, đã phủ sóng phát thanh và truyền hình toàn tỉnh, phát hành báo điện tử, báo tiếng dân tộc thiểu số ....

Các chính sách xã hội được chăm lo thực hiện chu đáo. Công tác giảm nghèo, các chính sách đền ơn đáp nghĩa, bảo trợ xã hội được điều chỉnh bổ sung kịp thời, phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương, đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện đồng bộ đề án giảm nghèo theo các hướng tập trung nguồn lực, xây dựng các giải pháp cụ thể, đầu tư có trọng điểm nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững; đặc biệt đối với địa bàn còn nhiều khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Công tác đào tạo nghề ngày càng được chú trọng về chất lượng, đồng thời gắn với giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo. Hệ thống các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh từng bước được đầu tư hoàn thiện. Chất lượng đào tạo nghề được nâng cao.

Đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao; bộ mặt bon/buôn có nhiều thay đổi, tiến bộ. Các dân tộc ngày càng đoàn kết, giúp nhau vươn lên xóa đói, giảm nghèo, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế. Hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng được quản lý theo pháp luật, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; các chức sắc, tín đồ tôn giáo hoạt động đều thực hiện theo pháp luật và giáo luật; đồng bào có đạo ngày càng tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được triển khai thực hiện tốt hơn, đặc biệt trong bố trí công việc, nâng cao năng lực, chăm sóc sức khỏe. Công tác chăm sóc, bảo về quyền trẻ em được xã hội quan tâm; các hoạt động đấu tranh phòng chống bạo hành trẻ em, nâng cao chế độ dinh dưỡng, cải thiện thể chất…được tuyên truyền và tổ chức thực hiện rộng rãi trong toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm đã được đẩy mạnh, phục hồi sau cai nghiện đã được quan tâm.

Khoa học và công nghệ có những bước phát triển mới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của khoa học, công nghệ ngày càng được khẳng định. Các tiến bộ kỹ thuật, sáng kiến được áp dụng ngày càng nhiều vào sản xuất, đời sống, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đã chú trọng hơn việc nghiên cứu, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống. Tiềm lực khoa học và công nghệ từng bước được tăng cường, củng cố; một số chính sách thu hút nguồn nhân lực trên lĩnh vực khoa học và công nghệ của tỉnh được ban hành. Đội ngũ trí thức không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng.

Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa - xã hội, khoa học và công nghệ còn những tồn tại, hạn chế:

Mạng lưới các trường học ngoài công lập phát triển chậm và chưa đều ở các cấp học; chất lượng giáo dục toàn diện còn thấp so với yêu cầu; vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa học sinh yếu kém còn chiếm tỷ lệ cao; việc huy động học sinh ra lớp và duy trì tỷ lệ đi học chuyên cần vẫn còn khó khăn. Năng lực một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu; đầu tư cho sự nghiệp giáo dục chưa hợp lý; cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đồng bộ.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết. Nguồn nhân lực y tế còn thiếu và yếu, đặc biệt là thiếu bác sỹ cho tuyến xã, thiếu cán bộ chuyên khoa đầu ngành cho tuyến tỉnh, một bộ phận cán bộ y tế sa sút về đạo đức nghề nghiệp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tuyến xã còn nghèo nàn, lạc hậu; chất lượng các dịch vụ y tế còn thấp. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động y tế còn yếu, hiệu quả thấp.

Thiết chế văn hoá, thể thao còn thiếu thốn, xuống cấp chưa đáp ứng với nhu cầu; công tác quy hoạch và xây dựng hạ tầng phục vụ văn hóa, văn nghệ, TDTT còn chưa kịp thời, đồng bộ. Nhiều chỉ tiêu văn hóa đạt thấp so với kế hoạch đề ra. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" chất lượng chưa cao. Số lượng báo chí phát hành còn ít, chất lượng chương trình còn hạn chế.

Kết quả công tác giảm nghèo chưa bền vững, đời sống của một bộ phận nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, cho vay vốn đối với người nghèo và các đối tượng chính sách chưa tốt; chủ trương cai nghiện cộng đồng còn nhiều bất cập, không hiệu quả.

Hoạt động khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đời sống còn rất hạn chế; nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chưa quan tâm đầu tư cho khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu; đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật thiếu và yếu.

C- CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG, AN NINH, NỘI CHÍNH

Đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng; quản lý điều hành của chính quyền về quốc phòng, an ninh được nâng cao. Tập trung xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện. Đã tập trung xây dựng khu vực phòng thủ liên hoàn vững chắc, các kế hoạch phòng thủ cơ bản. Tiềm lực quốc phòng được quan tâm đầu tư, nhất là trên tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm. Thực hiện xuyên suốt yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng quốc phòng, an ninh; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chất lượng chính trị các lực lượng vũ trang và dân quân tư vệ được nâng lên; thường xuyên được huấn luyện và trang bị về kiến thức, quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị, đồng thời nâng cao kỹ năng chiến đấu để sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ.

Thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Không để xảy ra biểu tình, bạo loạn chính trị, vượt biên, xâm nhập, nhen nhóm hình thành tổ chức FULRO; triệt phá các băng, nhóm tội phạm, trong đó có một số băng, nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”; thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về an ninh và trật tự an toàn xã hội. Thường xuyên tổ chức các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng nhiều mô hình tự quản, điển hình tiên tiến trong công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh trật tự tại cơ sở. Thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ và công tác cứu hộ, cứu nạn.

Sự phối hợp hiệp đồng giữa các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng với lực lượng vũ trang trong đấu tranh giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ngày càng chặt chẽ, thống nhất và có hiệu quả hơn. Công tác bồi dưỡng, giáo dục quốc phòng, gọi công dân nhập ngũ được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo quân số. Lực lượng vũ trang của tỉnh tiếp tục được củng cố, xây dựng vững mạnh toàn diện; dân quân, tự vệ “vững mạnh rộng khắp”; lực lượng dự bị động viên “vững mạnh, hùng hậu”, sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện tốt chính sách hậu phương đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.

Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật được chú trọng. Hoạt động của các cơ quan tư pháp từng bước được đổi mới và nâng cao chất lượng. Đã kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển, quy hoạch cán bộ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đề ra; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để thực hiện đúng lộ trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực hiện với chất lượng ngày càng được nâng lên. Công tác thanh tra tập trung vào các lĩnh vực quản lý tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, giao đất, giao rừng; qua đó hạn chế tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra gắn với trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương. Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm, tập trung rà soát, giải quyết căn bản các vụ khiếu nại, tố cáo kéo dài. Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được thực hiện bằng nhiều hình thức sinh động góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho toàn xã hội.

Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực. Đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức quán triệt và thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thường xuyên kiểm tra, thanh tra thực hiện các quy định về kê khai tài sản; công khai, minh bạch trong quản lý chi tiêu, xem xét trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí. Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý một số vụ án về tham nhũng kịp thời, công minh, được dư luận xã hội đồng tình cao. Tập trung đầu tư tổng kết, sơ kết rút kinh nghiệm về vi phạm, tăng cường thông tin, giáo dục, phòng ngừa trong cán bộ, đảng viên. Kịp thời điều chỉnh, thay thế cán bộ, sửa đổi bổ sung quy chế, lề lối quan hệ, làm việc trong cả hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, công tác quốc phòng, an ninh, nội chính còn những tồn tại, hạn chế:

Tình hình an ninh biên giới, an ninh chính trị nội địa vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Việc lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy đảng, chính quyền trong phát hiện, xử lý các điểm nóng về an ninh trật tự có lúc chưa kịp thời. Công tác điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án chậm; việc giải quyết đơn, thư khiếu kiện về tranh chấp đất đai chưa được triệt để; còn tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp; công tác tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa được thường xuyên, rộng rãi.

D- CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Đảng bộ thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc và năng động đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Thực hiện ký kết hợp tác toàn diện với tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia trên tất cả các lĩnh vực; hình thành khá rõ nét các kênh ngoại giao của chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội giữa hai tỉnh, biện pháp, hình thức đa dạng, phong phú, linh hoạt và sáng tạo, đã góp phần tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết giữa hai quốc gia, dân tộc; phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.

Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, trong nhiệm kỳ qua các hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều tiến bộ. Đã thu hút thêm 8 dự án ODA với tổng số vốn là 2.608 tỷ đồng, đang triển khai 3 dự án có mức vốn là 1.474 tỷ đồng; thu hút thêm 4 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 20 triệu USD. Xuất, nhập khẩu có mức tăng trưởng cao (gần 23%). Nhận thức về hội nhập quốc tế được cải thiện trong lãnh đạo chính trị cũng như trong giới doanh nghiệp và nhân dân của tỉnh.

E- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

I- KẾT QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

Công tác chính trị tư tưởng được coi trọng và tăng cường, từng bước được đổi mới về nội dung hình thức, dần đi vào chiều sâu; góp phần tích cực đấu tranh ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tạo sự đồng thuận trong toàn đảng bộ và nhân dân. Công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng được tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo thời gian, chất lượng; nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc học tập, nghiên cứu, quán triệt nghị quyết được nâng lên.

Đã tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị về “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đạt kết quả khá tốt. Ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực; hạn chế được biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh ổn định; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, điều hành của chính quyền được giữ vững. Đấu tranh phòng, chống âm mưu “Diễn biễn hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Công tác nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng được quan tâm. Nhiều tác phẩm có ý nghĩa lịch sử lớn được xuất bản, như: “Lịch sử phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912-1936)”; “Lịch sử Di tích cách mạng Nhà ngục Đắk Mil (1941-1943)”; “Lịch sử Căn cứ kháng chiến Nâm Nung”… góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục phát huy truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Công tác tổ chức xây dựng đảng được quan tâm đúng mức, đồng bộ, liên tục đạt nhiều kết quả tích cực.Số lượng, chất lượng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đã tập trung kiện toàn, củng cố cấp ủy, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là các tổ chức cơ sở đảng yếu kém đã được thu hẹp đáng kể. Phần lớn các tổ chức cơ sở đảng hiện nay đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị đề ra. Công tác đánh giá, phân loại, biểu dương, khen thưởng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm được thực hiện ngày càng đi vào nề nếp, đúng quy trình, nhất là qua kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Các tổ chức đảng cơ bản đã có sự nhìn nhận, đánh giá một cách chặt chẽ, khách quan, trung thực, phản ánh đúng hơn thực trạng và không chạy theo thành tích trong phân tích, phân loại.

Công tác phát triển đảng viên được các cấp uỷ đảng quan tâm chỉ đạo; chú trọng phát triển đảng viên ở những thôn, bon, bản còn ít đảng viên hoặc chưa có đảng viên là người tại chỗ; phát triển đảng viên là nữ, là người dân tộc thiểu số và người có đạo. Số đảng viên được kết nạp qua các năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Trong công tác phát triển đảng đã khắc phục chạy theo số lượng, chú trọng chất lượng; qua đó đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng đảng viên. Trong nhiệm kỳ kết nạp được 6.295 đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 21.300 đảng viên; “xóa” được 18 thôn, bản “trắng” đảng viên là người tại chỗ. Công tác đảng viên nề nếp, sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ. Nội dung và tính chất sinh hoạt được nhiều chi bộ đổi mới, từng bước có chuyển biến tích cực.

Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, đổi mới về nội dung, cách làm; chất lượng sát với tiêu chuẩn của từng chức danh, quy trình các bước tiến hành khá chặt chẽ, đảm bảo tính dân chủ, công khai, tạo được sự thống nhất cao trong nội bộ. Chú trọng chỉ đạo rà soát nguồn, nhận xét, đánh giá cán bộ quy hoạch, trong đó đặc biệt quan tâm đến yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực. Quan tâm quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, quy hoạch nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản và có triển vọng phát triển. Chú trọng đào tạo thực tiễn thông qua luân chuyển cán bộ; khuyến khích tự học, nâng cao trình độ nhằm tự chuẩn hoá; thực hiện tốt cơ cấu  ba độ tuổi, đầu tư chọn lựa và đào tạo cán bộ nguồn từ cán bộ trẻ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh cơ bản đáp ứng được nhu cầu, nhất là cấp cơ sở. Kết quả trong nhiệm kỳ đã cử đi đào tạo cao cấp lý luận chính trị 420 đồng chí (trong đó hệ tập trung 114 đồng chí); trung cấp lý luận chính trị 687 đồng chí; đào tạo sau đại học 217 đồng chí và cử nhiều lượt cán bộ, công chức tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chương trình quản lý nhà nước và các nghiệp vụ công tác khác, tạo nguồn được hơn 300 cán bộ trẻ trong toàn tỉnh.

Công tác điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, sắp xếp cán bộ được các cấp ủy đảng chỉ đạo thực hiện một cách dân chủ, công khai, đúng quy trình; bảo đảm tiêu chuẩn chức danh cán bộ, có năng lực, uy tín trong công tác; giới thiệu nhiều cán bộ trẻ bổ nhiệm giữ chức danh lãnh đạo nhằm tạo nguồn cho cán bộ lãnh đạo của tỉnh; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ người dân tộc thiểu số đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị tăng lên đáng kể. Chính sách cán bộ được thực hiện nghiêm túc; đã ban hành nhiều chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là các chính sách đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chỉ đạo chặt chẽ, thực hiện tốt việc thẩm tra, xác minh làm rõ vấn đề chính trị phục vụ cho công tác cán bộ và công tác phát triển đảng viên; chú trọng thực hiện chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị.

Công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm, đã góp phần tích cực nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, giáo dục, phòng ngừa hạn chế vi phạm. Công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Số lượng cuộc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên tăng hơn so với nhiệm kỳ trước; nội dung kiểm tra, giám sát đã tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực và gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Chú trọng kiểm tra, giám sát cấp ủy viên, người đứng đầu, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý; quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả cao hơn. Qua kiểm tra, giám sát đã giúp cấp uỷ đánh giá đúng tình hình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm hạn chế; giáo dục, phòng ngừa vi phạm. Mặt khác, các cấp ủy đảng cũng đã chỉ đạo xem xét làm rõ các vụ việc, xử lý nghiêm minh, chính xác những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm, góp phần quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 1.290 tổ chức đảng và 10.763 đảng viên theo Điều 30 Điều lệ Đảng; kiểm tra 667 tổ chức đảng có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; kiểm tra tài chính Đảng đối với 539 tổ chức; kiểm tra 49 tổ chức đảng và 715 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết tố cáo 01 tổ chức đảng và 133 đảng viên; thi hành kỷ luật 13 tổ chức đảng và 753 đảng viên; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với 18 đảng viên; giám sát 854 tổ chức đảng và 1.779 đảng viên…tăng nhiều lần về quy mô và số lượng so với nhiệm kỳ trước đây.

Công tác dân vận có bước đổi mới về nội dung, phương thức; đề cao dân chủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Cơ quan làm công tác dân vận các cấp có nhiều cách làm hay, sáng tạo và mang lại hiệu quả thiết thực. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận trong hệ thống được kiện toàn và không ngừng nâng cao chất lượng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Mô hình “dân vận khéo” thực hiện đa dạng, phong phú trên tất cả các lĩnh vực góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đảm bảo nguyên tắc, bám sát chức năng nhiệm vụ, quy chế và có nhiều đổi mới, nề nếp và hiệu quả. Dân chủ trong sinh hoạt đảng được phát huy; khắc phục dần tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng thông qua việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các quy chế hoạt động, xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp, vai trò nòng cốt của Mặt trận và đoàn thể. Phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng đã có bước đổi mới theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn, tạo ra hoạt động đồng bộ và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.

II- VỀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN

Chất lượng hoạt động của HĐND các cấp ngày càng được nâng lên, cơ quan hành chính Nhà nước đã được củng cố, kiện toàn. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND các cấp đã từng bước được kiện toàn về tổ chức, đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, phát huy tốt vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Chất lượng các kỳ họp ngày càng được nâng lên, các nghị quyết của HĐND ban hành đã cụ thể hóa được chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước trong tình hình thực tế ở địa phương; tạo cơ sở pháp lý để quản lý, điều hành, khai thác tiềm năng, thế mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác giám sát, khảo sát được tăng cường; có trọng tâm, trọng điểm; khắc phục kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Công tác tiếp dân, tiếp xúc cử tri; giải quyết kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được duy trì thường xuyên và đạt được kết quả tích cực. Đã có sự phân định rõ hơn giữa chức năng quản lý Nhà nước với quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Đẩy mạnh phân công, phân cấp cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành.

Công tác cải cách hành chính đã góp phần cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính và nhân dân, nhất là ở cơ sở. Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) của tỉnh được cải thiện đáng kể. Thể chế quản lý Nhà nước được chú trọng xây dựng, hoàn thiện, bảo đảm phù hợp với yêu cầu của tỉnh; cải cách thủ tục hành chính được triển khai tích cực; hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa liên thông ngày càng đi vào nề nếp; việc công khai minh bạch thủ tục hành chính đã rút ngắn thời gian giải quyết công việc, giảm thiểu khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Những cố gắng đó đã góp phần cải thiện chỉ số cải cách hành chính của tỉnh từ vị trí 45/63 (năm 2012) lên vị trí 36/63 tỉnh, thành vào cuối năm 2014. Tổ chức bộ máy hành chính các cấp được điều chỉnh, sắp xếp theo đúng quy định, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và cơ chế khoán biên chế, cơ chế tự chủ về tài chính đã giúp cho các cơ quan đơn vị nâng cao ý thức tiết kiệm, năng suất và hiệu quả công việc.

III- HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ

Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng được tăng cường, dân chủ được phát huy;tập hợp, đoàn kết rộng rãi và động viên được các tầng lớp nhân dân tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các hoạt động xã hội; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên đã có nhiều đổi mới trong công tác tập hợp, đoàn kết nhân dân; bám sát cơ sở, phát huy tốt vai trò của các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo, trí thức, doanh nhân. Phối hợp tốt với các cấp, các ngành trong việc vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, giữ vững mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội; đã kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp.

Về hạn chế, tồn tại của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:

Công tác tuyên truyền chưa thực sự rộng khắp; nắm bắt và định hướng tư tưởng xã hội chưa kịp thời; việc đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch còn hạn chế. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chất lượng nội dung sinh hoạt chi bộ chưa bảo đảm theo quy định; công tác kết nạp đảng ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ ở một số địa phương, đơn vị còn hạn chế, tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, trẻ còn thấp. Việc nhận diện và xử lý, chỉ đạo vấn đề chính trị hiện nay còn nhiều lúng túng.

Công tác kiểm tra, giám sát theo chương trình, kế hoạch còn chưa sát thực tế, một số nơi thiếu chủ động phát hiện, chưa kịp thời kiểm tra khi tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Việc khắc phục hậu quả, khuyết điểm sau kiểm tra còn chậm. Chưa làm tốt công tác truyền thông kết qủa kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật để nâng cao hiệu quả giáo dục, ngăn ngừa vi phạm của cán bộ, đảng viên. Việc xây dựng, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận; dự báo, nắm bắt diễn biến, tâm tư nguyện vọng, bức xúc của các tầng lớp nhân dân ở một số cấp ủy, chính quyền có lúc chưa kịp thời; việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận chưa đáp ứng yêu cầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ và quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.

Hoạt động giám sát của HĐND chưa toàn diện; hiệu lực, hiệu quả trong giám sát chưa cao; chất lượng thẩm tra còn hạn chế; chất lượng hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn chưa đáp ứng yêu cầu; việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa dứt điểm, còn để kéo dài. Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên về cải cách hành chính chưa sâu sắc. Công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thật chặt chẽ và hiệu quả, có nơi còn xem nhẹ. Việc tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể ở một số địa phương còn yếu.

Nhận thức của một số cấp uỷ đảng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa sâu sắc; còn coi nhẹ công tác vận động quần chúng. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức thành viên tham gia hoạt động giám sát; nhiều nơi còn né tránh, ngại va chạm với các cơ quan nhà nước. Công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân còn hạn chế.

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

Năm năm qua,trong điều kiện tình hình chung có những diễn biến bất lợi, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, cầu thị, quyết tâm lãnh đạo Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đạt các mục tiêu và nhiều chỉ tiêu chủ yếu của giai đoạn 2010 - 2015 do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy chưa đạt chỉ tiêu đề ra nhưng cũng ở mức khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; hạ tầng kỹ thuật được cải thiện đáng kể, nhất là giao thông, giáo dục, y tế. Nhiều dự án sản xuất kinh doanh lớn được triển khai, tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế cao cho những năm tới. Đời sống nhân dân được cải thiện nhanh; thu nhập bình quân đầu người tăng khá; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều thay đổi, tiến bộ. Chất lượng các dịch vụ xã hội cơ bản và việc thực hiện các chính sách xã hội được cải thiện đáng kể. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường ngày càng vững chắc. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị các cấp đạt nhiều kết qủa có ý nghĩa. Trong nhiệm kỳ có nhiều vấn đề quan trọng của tỉnh được lãnh đạo bằng các nghị quyết chuyên đề dần đi vào cuộc sống và đạt kết quả cao như: về phát triển cơ sở hạ tầng và đô thị hạt nhân; về phát triển nguồn nhân lực, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao… đây là những bài học tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới.

Những thành tựu trên là kết qủa của sự đoàn kết, thống nhất cao trong toàn Đảng bộ; của ý chí tự lực, tự cường và quyết tâm phấn đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh; của sự quan tâm lãnh đạo và hỗ trợ tạo điều kiện Trung ương; của sự hợp tác giúp đỡ của địa phương bạn trong cả nước.

Những hạn chế, yếu kém nổi lên đó là: quy mô nền kinh tế nhỏ bé và cơ bản vẫn là nền kinh tế thuần nông dựa vào khai thác tự nhiên là chính, hiệu quả thấp; việc quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên chưa chặt chẽ và kém hiệu quả, nhất là quản lý, sử dụng tài nguyên đất đai và rừng. Hạ tầng kỹ thuật thiết yếu vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sản xuất và đời sống. Mặt bằng dân trí, nguồn nhân lực xã hội, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao còn rất khó khăn. Áp lực dân di cư tự do đến chưa giảm. An ninh biên giới vẫn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị chưa theo kịp yêu cầu lãnh đạo, quản lý trong tình hình mới.

Tình hình trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, như: ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế chung, giảm sút đầu tư; của tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp; của tình trạng di dân tự do nhập cư tiếp tục gia tăng; của tình trạng dân trí thấp, trình độ sản xuất chậm phát triển. Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu là:

+ Quản lý hành chính nhà nướccòn có sự bất cập trên cả 4 lĩnh vực thể chế, bộ máy, cán bộ và tài chính công. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan đề ra quyết sách và tổ chức thực hiện thiếu nhịp nhàng, đồng bộ. Tích hợp những yếu điểm trên làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước không cao, kỷ cương điều hành, quản lý xã hội không nghiêm.

+ Việc vận dụng cơ chế chính sách có lúc chưa thật sự phù hợp; một số chính sách đã ban hành nhưng không đi vào cuộc sống. Chưa thực hiện tốt các giải pháp có tính đột phá trong các lĩnh vực trọng yếu để trở thành động lực thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

+ Xây dựng hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn nặng về hành chính và hình thức. Nguyên nhân của những nguyên nhân là năng lực tư duy và tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Một là, bài học về nhân tố con người: Ở đâu có cán bộ tốt, nhất là người đứng đầu, thì ở đó có phong trào cách mạng tốt; ở đâu có nhiều cán bộ tốt, ít cán bộ chưa tốt thì ở đó có phong trào cách mạng tốt hơn. Cán bộ tốt là cán bộ có trí tuệ, năng lực, đạo đức, tinh thần trách nhiệm nói đi đôi với làm, dám hy sinh và thật sự gương mẫu đi đầu. Do đó, phải xem công tác cán bộ là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tính quyết định đối với sự phát triển của mỗi địa phương, đơn vị và mọi cấp ủy đảng đều phải coi trọng nhiệm vụ này.

Hai là, bài học về sự phát triển hài hòa: Sự phát triển kinh tế - xã hội ở bất cứ địa phương nào thì bên cạnh mục tiêu trực tiếp là gia tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho đông đảo nhân dân đều cần phải gắn với mục tiêu “an dân”. Do đó, việc phát triển kinh tế phải hài hòa với phát triển xã hội, phải phù hợp với yêu cầu bảo đảm ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; đồng thời, không làm xấu đi môi trường sinh thái của hiện tại và tương lai. Phát triển hài hòa cũng đòi hỏi sự hài hòa về lợi ích thu được của các bộ phận xã hội khác nhau từ quá trình phát triển; không vì yêu cầu phát triển mà làm phương hại đến lợi ích của một bộ phận xã hội nào đó, nhất là các nhóm xã hội có điều kiện khó khăn hơn.

Ba là, bài học về công tác xây dựng Đảng: Trong điều kiện Đảng cầm quyền duy nhất, sự lãnh đạo của Đảng chi phối đến tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời điều kiện đó cũng tạo ra khả năng chủ quan, tự mãn, dễ mắc sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo. Ở đâu, tổ chức đảng có sức chiến đấu cao thì cả hệ thống chính trị vận hành thông suốt, huy động được sức mạnh của toàn xã hội thực hiện nhiệm vụ của Đảng. Ở đâu tổ chức đảng mất đoàn kết, giảm sút ý chí chiến đấu thì ở đó hệ thống chính trị hoạt động rời rạc, thiếu gắn kết, thiếu định hướng, không huy động được sức mạnh của toàn xã hội tham gia xây dựng đất nước. Vì vậy, ở mọi ngành, mọi cấp, các cấp ủy đảng phải nhận thức đầy đủ tính chất, vai trò của mình và thường xuyên chăm lo công tác xây dựng tổ chức đảng, đặc biệt là đối với công tác cán bộ, tổ chức cơ sở đảng, đảng viên.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Phần thứ nhất: Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 - 2015
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO