Những kết quả nổi bật dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Nông

Thùy Dương (t.h)| 01/06/2020 08:04

LTS: Tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, từ số báo hôm nay, Báo Đắk Nông mở chuyên mục “Những kết quả nổi bật dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Nông” từ khi thành lập tỉnh Đắk Nông (1/1/2004) đến nay. Mục đích nhằm cung cấp đến bạn đọc những con số, thành quả trong các lĩnh vực, đặc biệt là từ các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh gần đây để thấy được những nỗ lực, cố gắng vượt bậc.

ADQuảng cáo

Lãnh đạo phát triển kinh tế của tỉnh trong hai năm 2004-2005

Thực hiện Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội khóa XI về việc chia tách tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, từ ngày 1/1/2004, tỉnh Đắk Nông chính thức đi vào hoạt động.

Một góc thành phố Gia Nghĩa. Ảnh tư liệu

Ngày 25/12/2003, Ban Chấp hành Trung ương ra Quyết định số 876-QĐNS/TW thành lập Đảng bộ tỉnh Đắk Nông trực thuộc Trung ương và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 44 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời gồm 13 đồng chí, đồng chí Phan Tuấn Pha giữ chức Bí thư Tỉnh ủy lâm thời; các đồng chí Nguyễn Văn Thử, YPer Niê Kdăm và Đặng Đức Yến giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy lâm thời.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIII, Tỉnh ủy lâm thời Đắk Nông đề ra Chương trình số" 06-CTr/TU nhằm tiếp tục phát huy thế mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh trong hai năm 2004 - 2005.

Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Đắk Nông bước vào thực hiện Chương trình số 06-CTr/TU của Tỉnh ủy trong tình hình đất nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp. Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Nông nói riêng tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Tình hình chính trị chưa thực sự ổn định; thời tiết gây hạn hán kéo dài trên diện rộng, chỉ riêng năm 2004 mất trắng 15.000 ha cây trồng gây thiệt hại 165 tỉ đồng; giá vật tư, phân bón, xăng dầu tăng vọt, giá một số mặt hàng nông sản liên tục giảm thấp; hệ thống chính trị của tỉnh mới thành lập vừa phải xây dựng, kiện toàn bộ máy, vừa chỉ đạo, tổ chức điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội còn nhiều vấn đề bất cập.

Với tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh cố gắng nỗ lực vượt qua khó khăn thử thách, phấn đấu hoàn thành cơ bản những mục tiêu Đại hội đề ra. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, trong hai năm 2004 - 2005 tăng 12,2% (cao hơn mức 11% của Chương trình số 06- CTr/TU); năm 2005 tổng sản phẩm GDP đạt 2.426 tỉ đồng, bình quân đầu người 5,86 triệu đồng (khoảng 371 USD), bằng 61% so với mức bình quân của cả nước.

Năng lực sản xuất nông nghiệp hai năm 2004 - 2005 tăng lên rõ rệt so với hai năm 2001 - 2003, quy mô kinh tế vượt 1,1 lần; thu thập bình quân đầu người tăng 1,6 lần; chuyển dịch cơ cấu kinh tế bình quân hằng năm nhanh gấp 5,6 lần về công nghiệp, 1,7 lần về dịch vụ và giảm 3 lần về nông nghiệp. Các công trình thủy lợi được chú ý đầu tư; công tác khuyến nông, khuyến lâm, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được chú trọng, năng suất nhiều loại cây trồng được nâng lên.

Tổng diện tích gieo trồng tăng 39%, trong đó, cây hằng năm tăng 126%. Sản lượng lương thực năm 2005 đạt 170 nghìn tấn, tăng gấp 2,4 lần so với năm 2001; trong đó sản lượng thóc tăng gấp 1,6 lần, ngô tăng gấp 3,2 lần. Diện tích cây điều, cao su tăng gấp 2,9 lần; chuyển 13,7 nghìn ha cà phê kém hiệu quả sang trồng các loại cây khác.

Ngành chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 13,4%. Năm 2004, đàn trâu, bò cả tỉnh đạt 16.700 con (tăng 5,5%), đàn lợn là 109.000 con (tăng 5%). Năm 2005 so với năm 2001, đàn trâu, bò tăng 8,4%, đàn lợn tăng 42,5%, gia cầm tăng hơn 2 lần. Trên địa bàn tỉnh hình thành một số trang trại chăn nuôi có quy mô lớn. Công tác thú y, kiểm dịch động vật được chú trọng, kịp thời dập tắt dịch cúm gia cầm, chữa trị dịch bệnh lở mồm, long móng cho gia súc trên địa bàn. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi đầu tư còn nhỏ lẻ, manh mún, kém hiệu quả, tỷ trọng rất thấp so với trồng trọt, chưa tương xứng với tiềm năng.

Công tác quản lý, bảo vệ rừng được chú trọng. Mỗi năm tỉnh trồng mới trên 1.000 ha rừng, chủ yếu là rừng nguyên liệu, khai thác gần 20.000 m3 gỗ tròn. Mặc dù có cố" gắng trong quản lý, bảo vệ rừng, nhưng tài nguyên rừng, môi trường sinh thái bị suy giảm. Tình trạng đốt phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn xảy ra. Năm 2004, có 181 ha rừng bị chặt phá và cháy. Chỉ riêng trong 8 tháng đầu năm 2005 đã xảy ra 66 vụ vi phạm lâm luật, 311 ha rừng bị phá. Việc tổ chức quản lý lâm nghiệp còn bất cập; ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường của các tổ chức và nhân dân chưa cao.

Thực hiện Chương trình số" 08-CTr/TU ngày 28-7- 2004 của Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2004 - 2010, công nghiệp, xây dựng tỉnh bước đầu có sự khởi sắc. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 20,1%.

Đến năm 2005, toàn tỉnh có một số" nhà máy chế" biến nông, lâm sản quy mô khá lớn và có khoảng 1.200 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Một số ngành công nghiệp có lợi thế được chú trọng thu hút đầu tư như thủy điện, bôxít. Năm 2004, trên địa bàn tỉnh hình thành Khu công nghiệp Tâm Thắng, cụm công nghiệp Nhân Cơ. Một số" dự án khai thác thủy điện được triển khai xây dựng như các nhà máy thủy điện Dray H’linh II, Buôn Tua Srah và Đồng Nai 3 và 4; tổng số" vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 huy động đạt khoảng 800 tỉ đồng. Việc đầu tư chủ yếu cho các công trình giao thông thị xã, trụ sở các cơ quan, Trung tâm hội nghị tỉnh, công trình thủy lợi vừa và nhỏ, sửa chữa trường học và mặt bằng công trình thủy điện Đồng Nai.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng khoảng 58%/năm; trong đó, sản xuất vật liệu xây dựng tăng trưởng bình quân 21%/năm. Riêng 9 tháng đầu năm 2005, giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 2,5 lần so với năm 2004. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản được đổi mới, theo hướng tăng quyền chủ động và đề cao trách nhiệm quản lý chất lượng công trình cho chủ đầu tư.

Thực hiện Chương trình số 08-CTr/TU ngày 28/7/2004 của Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2004 - 2010, công nghiệp, xây dựng tỉnh bước đầu có sự khởi sắc. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 20,1%.

Đến năm 2005, toàn tỉnh có một số nhà máy chế biến nông, lâm sản quy mô khá lớn và có khoảng 1.200 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Một số ngành công nghiệp có lợi thế được chú trọng thu hút đầu tư như thủy điện, bôxít. Năm 2004, trên địa bàn tỉnh hình thành Khu công nghiệp Tâm Thắng, cụm công nghiệp Nhân Cơ. Một số dự án khai thác thủy điện được triển khai xây dựng như các nhà máy thủy điện Dray H’linh II, Buôn Tua Srah và Đồng Nai 3 và 4; tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 huy động đạt khoảng 800 tỉ đồng.

Việc đầu tư chủ yếu cho các công trình giao thông thị xã, trụ sở các cơ quan, Trung tâm hội nghị tỉnh, công trình thủy lợi vừa và nhỏ, sửa chữa trường học và mặt bằng công trình thủy điện Đồng Nai. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng khoảng 58%/năm; trong đó, sản xuất vật liệu xây dựng tăng trưởng bình quân 21%/năm. Riêng 9 tháng đầu năm 2005, giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 2,5 lần so với năm 2004. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản được đổi mới, theo hướng tăng quyền chủ động và đề cao trách nhiệm quản lý chất lượng công trình cho chủ đầu tư.

Thương mại, dịch vụ có bước phát triển, hiệu quả được nâng lên. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm khoảng 20%, GDP tăng 20,4%/năm (mục tiêu là 11 - 13%), bước đầu đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng xã hội. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng bình quân hằng năm 15,6%. Hoạt động ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông có bước phát triển, đến cuối năm 2005 có 100% xã, thị trấn có điện thoại, bình quân 3,5 máy/100 dân.

Kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt khoảng 146 triệu USD; riêng hai năm 2004 - 2005 chiếm tới 72%; hàng hóa được bảo đảm về số lượng, chất lượng và chủng loại, nhất là các mặt hàng thiết yếu và vật tư phục vụ sản xuất, sức mua của người dân tăng. Năm 2004 bắt đầu hoạt động nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt hơn 5 triệu USD, nhập khẩu tiểu ngạch tại cửa khẩu Đắk Pơ và Bu Prăng đạt khoảng hơn 200.000 USD.

Cơ cấu ngành có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng khu vực công nghiệp trong GDP tăng từ 4,4% năm 2000 lên 11,6% năm 2005 (mục tiêu là 10 - 11%); khu vực dịch vụ tăng từ 10,2% lên 16,7% (mục tiêu là 17 - 18%); khu vực nông nghiệp giảm từ 85,4% xuống còn 71,7% (mục tiêu là 72 - 73%). Cơ cấu nền kinh tế của tỉnh được xác định là nông nghiệp - công nghiệp và dịch vụ. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được quan tâm chỉ đạo và có kết quả bước đầu; giá trị sản xuất ngành trồng trọt giảm từ 93,6% xuống 92,4%; ngành chăn nuôi tăng từ 4% lên 4,4%; giá trị dịch vụ nông nghiệp tăng từ 2,4% lên 3,2%.

Cơ cấu tiểu vùng kinh tế hình thành phát triển theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng tiểu vùng. Tiểu vùng phía bắc gồm các huyện Đắk Mil, Cư Jút và Krông Nô được khai thác thế mạnh nông nghiệp (cây lúa nước, cây công nghiệp dài ngày), công nghiệp chế biến nông, lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng và du lịch. Tiểu vùng phía nam gồm các huyện Đắk Song, Đắk R’lấp, Đắk G'long phát huy lợi thế thủy điện, khai khoáng, du lịch và từng bước trở thành vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh.

Cơ cấu thành phần kinh tế bao gồm: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 10,1% GDP; các doanh nghiệp nhà nước từng bước được đổi mới, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Kinh tế" dân doanh chiếm 89,6% GDP, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế" - xã hội của tỉnh, nhất là giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới chiếm 0,3% GDP, nhưng đóng góp trên 70% kim ngạch xuất khẩu; trong các ngành kinh tế" đều diễn ra sự đan xen nhiều loại hình sở hữu.

Lãnh đạo kinh tế của tỉnh trong giai đoạn 2005-2010

Để tạo ra bước chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX đề ra, Tỉnh ủy xác định cần phải có chiến lược phát triển nhanh, toàn diện và mang tính bền vững. Từ quan điểm đó, Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh và các sở, ngành của tỉnh nghiên cứu tình hình cụ thể, đặc điểm và thực trạng kinh tế nông, lâm nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ của tỉnh để từ đó đề xuất các phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế của tỉnh trong tình hình mới.

Về sản xuất nông nghiệp, vì là một trong những ngành có lợi thế cạnh tranh của tỉnh, đóng góp gần 60% tổng sản phẩm (GDP) toàn tỉnh nên công tác thủy lợi được Đảng bộ tỉnh đặc biệt quan tâm. Để thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX là "đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn" cần thiết phải xây dựng nghị quyết chuyên đề về phát triển thủy lợi nhỏ để xây dựng và đổi mới căn bản công tác thủy lợi về hạ tầng cơ sở kỹ thuật, cơ chế chính sách và tổ chức quản lý, nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản, bền vững trong sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ bức thiết.

Ngày 30/5/2006, Tỉnh ủy Đắk Nông đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU về phát triển thủy lợi nhỏ giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020. Tỉnh ủy nêu rõ mục tiêu phát triển thủy lợi giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020 là tạo ra hệ thống hạ tầng kỹ thuật thủy lợi đồng bộ, góp phần tạo sự chuyển biến nhanh và bền vững trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; phấn đấu đáp ứng nhu cầu cần tưới trên 60% vào năm 2010 và trên 80% vào năm 2020; bảo đảm tổng nhu cầu vốn xây lắp công trình trong giai đoạn 2006 - 2010 khoảng trên 2.400 tỉ đồng; từng bước thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn một cách bền vững, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị trên địa bàn toàn tỉnh, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.

Cùng với việc quan tâm đến công tác thủy lợi, Đảng bộ và chính quyền các cấp của tỉnh Đắk Nông ngay từ khi được thành lập đã đánh giá đúng vị trí, vai trò quan trọng của hệ thống khuyến nông nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên cơ sở khảo sát và đánh giá đúng thực tiễn nông nghiệp, ngày 24/7/2006, Tỉnh ủy Đắk Nông ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU về phát triển khuyến nông, khuyến ngư giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Nghị quyết đề ra 5 phương hướng cơ bản phát triển hoạt động khuyến nông, khuyến ngư.

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ IX, sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng, khẳng định chủ trương, quan điểm, cũng như những giải pháp được Đảng bộ đề ra ngay từ đầu nhiệm kỳ đối với lĩnh vực nông nghiệp là hoàn toàn đúng hướng. Đến năm 2010, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển, giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, quy mô, năng lực sản xuất tăng lên rõ rệt, giá trị sản xuất tăng bình quân hằng năm là 7,5%.

Công tác khuyến nông, khuyến lâm, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất được chú trọng, năng suất của nhiều loại cây trồng được nâng lên; đã hình thành một số mô hình sản xuất trang trại nông, lâm kết hợp và phát triển một số cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao như: khoai lang Nhật Bản, chanh dây, hoa, cây ăn quả... Tổng diện tích gieo trồng năm 2010 đạt 252 ngàn ha, trong đó diện tích cây cao su đạt 20,9 ngàn ha, cà phê đạt 78 ngàn ha, tiêu đạt 6,7 ngàn ha. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được chú trọng, mỗi năm trồng mới 2.000 ha rừng, chủ yếu là rừng nguyên liệu.

Mục tiêu cơ bản phát triển công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2005 - 2010 được thể hiện trong các mục tiêu phát triển kinh tế tổng thể mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ IX đã đề ra là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm 15% trở lên, trong đó công nghiệp tăng trên 45%; đến năm 2010, cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp chiếm 48,6%, nông nghiệp chiếm 28,9%, dịch vụ chiếm 22,5%; đến sau năm 2015, cơ cấu kinh tế là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Quy mô nền kinh tế năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2005. Phát triển hạ tầng cơ sở đến năm 2010 phải bảo đảm giao thông nhựa hóa 100% đường tỉnh, 60% đường huyện, 50% bon, buôn có từ 1 đến 2 km đường nhựa, 100% buôn, thôn có điện lưới quốc gia, 90% số hộ được dùng điện...

Nhận thức được yêu cầu của thực tiễn, ngay trong thời gian đầu của nhiệm kỳ, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông đã xác định rõ quan điểm trong lãnh đạo phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch tổng thể về phát triển công nghiệp của tỉnh, vùng, khu vực và của cả nước, khai thác triệt để những tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh, tập trung vào các ngành khai thác như khoáng sản, thủy điện, chế biến nông, lâm sản... xây dựng các làng nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ đi đôi với nâng cao hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm hàng hóa; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải gắn với quốc phòng - an ninh và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm này được thể hiện trong Nghị quyết số 10-NQ/TU của Tỉnh ủy Đắk Nông ngày 23/10/2006 về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Trong đó, Tỉnh ủy xác định đến trước năm 2015, cơ cấu kinh tế của tỉnh phải đạt được là: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, đồng thời phấn đấu đến trước năm 2020, tỉnh Đắk Nông cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp.

Trong giai đoạn 2006 - 2010, sản xuất công nghiệp - xây dựng của tỉnh đã từng bước ổn định và phát triển cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm trên 39%, năm 2010 đạt 1.305 tỉ đồng, tăng hơn 5,2 lần so với năm 2005; đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 1.787 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hoạt động. Hệ thống lưới điện được quan tâm đầu tư; cơ bản các thôn, buôn, bon đều có điện lưới quốc gia và 90% số hộ được sử dụng điện. Khu công nghiệp Tâm Thắng và các cụm công nghiệp Đắk Ha, Nhân Cơ... tiếp tục được đầu tư xây dựng. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (2005 - 2010) tăng bình quân 42%/năm. Công tác quản lý đầu tư xây dựng được phân cấp cho các ngành, sở, huyện, thị xã.

Mục tiêu cơ bản phát triển công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2005 - 2010 được thể hiện trong các mục tiêu phát triển kinh tế tổng thể mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ IX đã đề ra là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm 15% trở lên, trong đó công nghiệp tăng trên 45%; đến năm 2010, cơ cấu kinh tế của tỉnh là: Công nghiệp chiếm 48,6%, nông nghiệp chiếm 28,9%, dịch vụ chiếm 22,5%; đến sau năm 2015, cơ cấu kinh tế là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Quy mô nền kinh tế năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2005. Phát triển hạ tầng cơ sở đến năm 2010 phải bảo đảm giao thông nhựa hóa 100% đường tỉnh, 60% đường huyện, 50% bon, buôn có từ 1 đến 2 km đường nhựa, 100% buôn, thôn có điện lưới quốc gia, 90% số hộ được dùng điện...

Ngay trong thời gian đầu của nhiệm kỳ, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông đã xác định rõ quan điểm trong lãnh đạo phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là: Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch tổng thể về phát triển công nghiệp của tỉnh, vùng, khu vực và của cả nước, khai thác triệt để những tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh, tập trung vào các ngành khai thác như khoáng sản, thủy điện, chế biến nông, lâm sản... xây dựng các làng nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ đi đôi với nâng cao hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm hàng hóa; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phải gắn với quốc phòng - an ninh và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái.

Quan điểm này được thể hiện trong Nghị quyết số 10-NQ/TU của Tỉnh ủy Đắk Nông ngày 23/10/2006 về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Trong đó, Tỉnh ủy xác định đến trước năm 2015, cơ cấu kinh tế của tỉnh phải đạt được là: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, đồng thời phấn đấu đến trước năm 2020, tỉnh Đắk Nông cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp.

Để triển khai Nghị quyết, Tỉnh ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Công thương, Sở Xây dựng và nhiều sở, ngành trong tỉnh quán triệt các quan điểm chỉ đạo, phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp, nhiệm vụ phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trong đó, nhiệm vụ đầu tiên phải thực hiện là hoàn thiện đề án quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của tỉnh. Đồng thời, cùng với sự hỗ trợ của Trung ương, tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng, hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật và kêu gọi đầu tư lấp đầy Khu công nghiệp Tâm Thắng, cụm công nghiệp Nhân Cơ, Đắk Ha, từng bước hoàn thiện quy hoạch các cụm công nghiệp Thuận An, huyện Đắk Mil và thị xã Gia Nghĩa...

Trong giai đoạn 2006 - 2010, sản xuất công nghiệp - xây dựng của tỉnh đã từng bước ổn định và phát triển cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm trên 39%, năm 2010 đạt 1.305 tỉ đồng, tăng hơn 5,2 lần so với năm 2005; đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 1.787 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hoạt động. Hệ thống lưới điện được quan tâm đầu tư; cơ bản các thôn, buôn, bon đều có điện lưới quốc gia và 90% số hộ được sử dụng điện. Khu công nghiệp Tâm Thắng và các cụm công nghiệp Đắk Ha, Nhân Cơ... tiếp tục được đầu tư xây dựng. Giá trị sản xuất ngành xây dựng (2005 - 2010) tăng bình quân 42%/năm. Công tác quản lý đầu tư xây dựng được phân cấp cho các ngành, sở, huyện, thị xã.

Đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong sự nghiệp phát triển kinh tế" - xã hội của tỉnh, ngày 23/10/2006, Tỉnh ủy Đắk Nông ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU về phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Nghị quyết khẳng định: Đầu tư khai thác tiềm năng du lịch là đầu tư hiệu quả trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, thu hồi vôn nhanh và tỷ lệ lợi nhuận cao hơn rất nhiều ngành kinh tế khác. Vì vậy, phương hướng phát triển du lịch của địa phương trong giai đoạn 2006 - 2010 được xác định: Phát huy tiềm năng du lịch của tỉnh, nhất là du lịch sinh thái và văn hóa; tích cực đầu tư xây dựng mới cơ sở vật chất và hạ tầng cho ngành du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh du lịch nhằm khai thác triệt để mọi khả năng về vốn, kỹ thuật, tri thức, lao động và tài nguyên du lịch; đa dạng hóa và hoàn thiện sản phẩm du lịch của địa phương tạo sự hấp dẫn đặc thù thu hút du khách trong và ngoài nước.

Để thực hiện phương hướng nêu trên, xuất phát từ thực trạng phát triển du lịch của tỉnh, Nghị quyết số 99-NQ/TU của Tỉnh ủy đề ra các chỉ tiêu cụ thể cho phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó, phấn đấu đến năm 2015, GDP ngành du lịch chiếm 3% trong giá trị tổng sản phẩm của tỉnh, góp phần thực hiện cơ cấu kinh tế" của tỉnh là: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra. Đến năm 2020, GDP của ngành du lịch chiếm trên 5% trong giá trị tổng sản phẩm của tỉnh, tăng trên 5 lần so với năm 2010.

Trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Nông đã cùng với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo ngành du lịch của tỉnh cũng như các sở, ban, ngành có liên quan và các địa phương có tiềm năng, thế mạnh về phát triển du lịch khảo sát, xây dựng quy hoạch và xác lập các đề án nhằm đưa du lịch của tỉnh trở thành một ngành kinh tế có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Đắk Nông.

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển du lịch, lĩnh vực thương mại, dịch vụ và du lịch của tỉnh đã có bước phát triển khá. Giá trị dịch vụ tăng bình quân hằng năm là 17,5%. Các dịch vụ lưu trú, nhà hàng, khách sạn, vận tải, bưu chính viễn thông phát triển nhanh, chất lượng phục vụ từng bước được nâng lên. Hạ tầng cơ sở các điểm, tuyến du lịch sinh thái, du lịch văn hóa bước đầu được chú trọng đầu tư. Đến năm 2010, có 100% xã, thị trấn có điện thoại, bình quân điện thoại cố định và di động trả sau đạt 20 máy/200 dân, có 8 ngàn thuê bao internet.

Trên địa bàn tỉnh có 5 ngân hàng thương mại và 1 tổ chức tín dụng hoạt động. Nguồn vốn huy động tại chỗ cho đầu tư phát triển tăng cao, bình quân hằng năm là 36,2%; tổng dư nợ cho vay tăng bình quân hằng năm là 47,5%. Gói kích cầu của Chính phủ được tổ chức thực hiện tốt, có tác động tích cực trong việc chống suy giảm kinh tế, duy trì được tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư xã hội năm 2010 đạt 80,29% GDP của tỉnh, đây là mức đầu tư khá cao so với mức đầu tư của một số" tỉnh có cùng điều kiện với tỉnh Đắk Nông.

Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được ban hành kịp thời, đúng hướng và bước đầu đi vào cuộc sống, được đông đảo Nhân dân và doanh nghiệp triển khai thực hiện, làm thay đổi tư duy, tập quán canh tác trên nhiều loại cây trồng, vật nuôi; nhiều mô hình sản xuất đã ứng dụng rộng rãi các tiến bộ về công nghệ sinh học, cơ giới hóa, tự động hóa; tổ hợp tác, hợp tác xã được quan tâm củng cố, phát triển, đã góp phần đưa lại hiệu quả kinh tế cao.

Hệ thống khuyến nông được xây dựng và kiện toàn tương đối hoàn chỉnh, trở thành lực lượng nòng cốt trong việc chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp đã tăng từ 45 triệu đồng (năm 2010) lên 70 triệu đồng (năm 2015). Sản xuất hàng hóa nông sản với quy mô ngày càng lớn, sản phẩm nông nghiệp đa dạng; một số sản phẩm bắt  đầu  đã có  thương  hiệu,  chất   lượng được đánh giá cao, như: khoai lang Tuy Đức, quả có múi Đắk Glong, hạt tiêu Đắk Song, cà phê Đức Lập...

Kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác được phát triển ở nhiều nơi, là tiền đề để hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có sức cạnh tranh tốt, góp phần quan trọng vào kết quả công tác xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững và ứng dụng rộng rãi những tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp. Cấp ủy và chính quyền các cấp đã chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; hệ thống hạ tầng kỹ thuật ở nhiều khu vực nông thôn đã được đầu tư xây dựng,... đã làm cho diện mạo khu vực nông thôn thay đổi đáng kể.

Cùng với Nghị quyết về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Tỉnh ủy Đắk Nông ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 15/11/2010 về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên, khoáng sản của tỉnh đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU, Tỉnh ủy đã kịp thời ra các nghị quyết chuyên đề, thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo chấn chỉnh, khắc phục yếu kém. Công tác tuyên truyền, giáo dục được tăng cường; nhận thức của các ngành, các cấp được nâng lên. Công tác thẩm định hồ sơ, giải quyết các thủ tục về giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản bảo đảm đúng pháp luật. Đến năm 2015, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 95,7% tổ chức, đơn vị; 99,06% hộ gia đình, cá nhân có đủ điều kiện; điều chỉnh quy hoạch thủy điện; tổ chức lại việc quản lý, sử dụng đất rừng và đất nông nghiệp; xử lý nghiêm vi phạm về bảo vệ môi trường, bảo đảm định hướng phát triển bền vững.

Sản xuất công nghiệp tăng khá, thương mại dịch vụ có bước phát triển nhanh. Giá trị gia tăng lĩnh vực công nghiệp năm 2015 đạt 2.494 tỉ đồng, tăng 2,2 lần so với năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 16,8%. Trong điều kiện kinh tế khó khăn chung, lĩnh vực công nghiệp duy trì tăng trưởng ổn định đã góp phần đáng kể vào quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Nhà máy Alumin Nhân Cơ đã bước vào giai đoạn chạy thử nghiệm, Nhà máy điện phân nhôm đã khởi công và đang bảo đảm tiến độ xây dựng. Việc nghiên cứu ứng dụng để sản xuất sắt từ bùn đỏ đã thành công ở bước thử nghiệm, mở ra khả năng giải quyết vấn đề bùn đỏ của công nghiệp bôxít với quy mô lớn, là cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và công nghiệp sau nhôm trong những năm tới. Công nghiệp sản xuất và phân phối điện dần đi vào ổn định, chất lượng dịch vụ cung cấp điện ngày càng được nâng lên. Công nghiệp chế biến, nhất là chế biến nông, lâm sản từng bước phát triển, giá trị sản xuất không ngừng được tăng lên; sản xuất công nghiệp đã tăng 150 cơ sở so với đầu nhiệm kỳ, xây dựng được thêm khu công nghiệp mới ở Nhân Cơ với quy mô 148 ha; một số cụm công nghiệp đã  được triển khai đầu tư hạ tầng cơ  sở. Về cơ bản lĩnh vực công nghiệp ngày càng khẳng định vị trí về thế mạnh lớn nhất trong kinh tế, phát triển đúng hướng trong cơ cấu kinh tế chung của tỉnh, có triển vọng lớn.

Nhà máy Alumin Nhân Cơ hiện nay. Ảnh: tư liệu

Tổng mức bán lẻ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 17,6% và 22,87%. Các dịch vụ tài chính ngân hàng, viễn thông, vận tải, khách sạn và các dịch vụ công đều có bước phát triển đáng kể. Đến năm 2015 đã có 8/8 huyện, thị xã và 41/71 xã có chợ nông thôn. Hệ thống các đại lý bán buôn, bán lẻ được hình thành rộng khắp ở các thị trấn, thị tứ nên việc mua bán, luân chuyển hàng hóa ngày càng thuận lợi. Hệ thống các tổ chức tín dụng được mở rộng, tăng trưởng tín dụng bình quân hằng năm đạt 21%, tổng dư nợ năm 2015 đạt 12.800 tỉ đồng, tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của các ngành dịch vụ được đầu tư tăng cường mạnh, chất lượng các dịch vụ cơ bản được cải thiện đáng kể.

Hệ thống các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế hợp tác ngày càng phát triển. Việc điều chỉnh các chính sách thu hút đầu tư theo hướng ngày càng ưu đãi nhiều hơn cho nhà đầu tư; đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư; đẩy mạnh cải cách hành chính. Đến năm 2015, toàn tỉnh có 3.217 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, trong đó có 1.889 doanh nghiệp đang hoạt động với nguồn vốn đăng ký bình quân 8,81 tỉ đồng/1 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp lớn đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh và mũi    nhọn kinh tế của tỉnh, như: sản  xuất alumin, nhôm, chăn nuôi đại gia súc, chế biến lâm sản, xây dựng hạ tầng cơ sở giao thông... Một số doanh nghiệp có trình độ ứng dụng công nghệ cao; có khả năng về vốn, thị trường, có thể đóng vai trò quan trọng trong phát triển chung. Các hợp tác xã, tổ hợp tác đang dần được đổi mới, hoạt động, phát triển theo hướng thị trường. Một số mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới được hình thành như: nhóm đồng sở thích, nhóm tiết kiệm tín dụng đã hoạt động có hiệu quả, có độ tin cậy. Nhiều dự án ODA được triển khai với quy mô lớn với mục tiêu hướng vào phát triển nông thôn, giảm nghèo bền vững, phát triển cộng đồng, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Lãnh đạo văn hóa - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2003-2005

Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển tiến bộ. Quy mô trường lớp được chú trọng mở rộng ở tất cả các cấp học, không còn hiện tượng học ca ba. Năm học 2005 - 2006, toàn tỉnh có 123.000 học sinh từ mầm non đến trung học phổ thông, tăng gần 11.000 học sinh so với năm học 2004 - 2005; học sinh dân tộc thiểu số có 40.000 em (chiếm 32,75% tổng số học sinh). Bình quân số học sinh hằng năm tăng 5,7%, cứ 3,5 người dân có 1 người đi học. Việc đầu tư chăm sóc giáo dục cho con em dân tộc thiểu số được đặc biệt quan tâm, toàn tỉnh có 6 trường trung học dân tộc nội trú (trong đó có 1 trường trung học phổ thông), cơ sở vật chất khá hoàn chỉnh và được Nhà nước tài trợ về học bổng, sách vở, bảo hiểm học sinh. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng cao, đội ngũ giáo viên ngày càng được bổ sung và chuẩn hóa, các tổ chức khảo thí, Hội đồng giáo dục, Hội Khuyến học được hình thành.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân đạt được nhiều thành quả quan trọng. Các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia được triển khai đầy đủ trên toàn tỉnh; đặc biệt là tiêm chủng mở rộng và phòng, chống sốt rét; tích cực và chủ động phòng, chống có hiệu quả các bệnh dịch phổ biến. Ngày 11/5/2004, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 05-CT/TU về việc củng cố hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở.

Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TU của Tỉnh ủy, ngành Y tế xây dựng Đề án củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở tỉnh Đắk Nông đến năm 2010, Đề án được triển khai toàn diện và đồng bộ; tập trung xây dựng thí điểm 6 xã đạt “chuẩn quốc gia về y tế" xã và 9 “làng văn hóa - sức khỏe” để làm mô hình nhân rộng; 86,5% số xã có bác sĩ và nữ hộ sinh, trong đó 100% số xã đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ có bác sĩ; 100% số thôn, bon, buôn có nhân viên y tế; tất cả các huyện, xã, thị trấn đều có cơ sở phòng và chữa bệnh cho Nhân dân. Thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số với chi phí bình quân hằng năm 6 - 7 tỉ đồng; giải quyết cơ bản nhu cầu cấp cứu, khám, chữa bệnh cho Nhân dân ở các huyện; xúc tiến xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh giai đoạn I (quy mô 300 giường bệnh). Công tác truyền thông dân số, kế hoạch hóa gia đình được đẩy mạnh; chiến dịch "Tăng cường đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình đến vùng khó khăn” được chú trọng; đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên cơ sở được củng cố, phát triển, đạt được mục tiêu giảm tỷ suất sinh hằng năm là 1,1%0. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2005 giảm còn 2,1%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 1,5 - 2% hằng năm, hiện còn 33%.

Công tác nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, cải tiến, đổi mới công nghệ và xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ được chú trọng đầu tư; cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới; công tác bảo vệ môi trường theo quan điểm bền vững được nhận thức đầy đủ hơn; hoạt động sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng hỗ trợ cho sự phát triển sản xuất, ổn định thị trường, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Nhiều đề tài khoa học có ý nghĩa thực tiễn về kinh tế, văn hóa, chính trị - xã hội được triển khai nghiên cứu như: Công trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý; công trình xác định tiếng M'nông chuẩn để xây dựng bộ chữ viết; sưu tầm, biên dịch sử thi và các phong tục, tập quán, lễ hội của dân tộc M'nông; công trình nghiên cứu biên tập lịch sử cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông...

Hoạt động văn hóa - văn học nghệ thuật, thông tin - báo chí, phát thanh - truyền hình, thể dục - thể thao có bước đổi mới về nội dung và hình thức. Văn hóa - thông tin được mở rộng, góp phần tăng hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trở thành một phong trào được các tầng lớp Nhân dân tham gia, tạo nên chuyển biến tích cực ở nhiều lĩnh vực của đời sống, bước đầu hình thành tư tưởng, đạo đức, nếp sống, lối sống trong các tầng lớp Nhân dân. Đảng bộ chỉ đạo xây dựng và triển khai Chương trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số được quan tâm; tất cả bon, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ có nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng; mức hưởng thụ văn hóa của Nhân dân nâng cao hơn trước.

Hoạt động báo chí có tiến bộ về chất lượng. Báo Đắk Nông tăng kỳ báo trong tuần từ hai số lên ba số. Công tác phát thanh - truyền hình trên địa bàn từng bước được mở rộng về diện phủ sóng và quy mô phục vụ (phủ sóng phát thanh 100% và truyền hình 90%); phát sóng chương trình phát thanh tiếng M'nông, mở thêm các chuyên mục, chuyên đề, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa, thông tin của Nhân dân.

Ngày 21/10/2004, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 13-CT/TU về phát triển thể dục - thể thao đến năm 2010. Thực hiện Chỉ  thị số 13-CT/TU của Tỉnh ủy, phong trào thể dục - thể thao, rèn luyện thân thể trong Nhân dân ngày càng phát triển, đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức, thu hút được nhiều người tham gia; bước đầu chú trọng đầu tư phát triển một số môn có thành tích cao.

Các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện, từng bước hài hòa hơn với phát triển kinh tế. Công tác đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động được chú trọng; hằng năm giải quyết việc làm cho gần 9.000 lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống còn 1,15%, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 84%. Công tác xóa đói, giảm nghèo được triển khai tích cực với nhiều hình thức phong phú và có hiệu quả thiết thực, nhiều hộ thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo từ 14,83% năm 2003 giảm còn 7,5% vào cuối năm 2005 (trong đó đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ còn trên 30%).

Chính sách dân tộc của Đảng được thực hiện trên nhiều lĩnh vực quan trọng. Công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ được coi trọng và có chuyển biến tích cực; có gần 55% số hộ cơ bản hoàn thành định canh, định cư, giảm được hộ đói nghèo. Đến 2005, cơ bản giải quyết xong đất sản xuất, đất ở, nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ theo các chương trình của Chính phủ; riêng chương trình nước sạch cho đồng bào tiếp tục giải quyết xong vào cuối năm 2006.

Thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 1/9/2004 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện chính sách đối với người có công, hoạt động chăm sóc người có công được duy trì và mở rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” được toàn xã hội quan tâm và hưởng ứng tích cực. Trong hai năm 2004 - 2005, toàn tỉnh xây dựng được 124 nhà tình nghĩa, huy động “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” được 500 triệu đồng.

Công tác củng cố quốc phòng - an ninh được Đảng bộ tỉnh tập trung lãnh đạo. Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Chỉ thị số 16/2004/CT-TTg ngày 1/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động FULRO, bảo đảm an ninh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân được đẩy mạnh. Đảng bộ tỉnh tập trung lãnh đạo và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; tăng cường sức mạnh phòng thủ và tiềm lực quốc phòng, bước đầu đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện cho kinh tế” - xã hội của tỉnh phát triển.

Ngày 13/5/2004, Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 03-NQ/TU về xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, công tác xây dựng hệ thống phòng thủ trên tuyến biên giới được tăng cường; kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh các phương án phòng, chống biểu tình, bạo loạn, vượt biên; tăng cường phối hợp giữa các lực lượng quân đội, công an và các đoàn thể quần chúng trong công tác diễn tập, xử lý nhanh các điểm nóng về an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh. Năm 2004, ta đã bóc gỡ, vận động ra đầu thú được 378 đối tượng trong tổ chức FULRO và đấu tranh bóc gỡ 638 cơ sở ngầm FULRO; phát hiện và bắt giữ 16 đối tượng quá khích cầm đầu vụ gây rối biểu tình tại huyện Cư Jút, 16 đối tượng trong đường dây tổ chức biểu tình, bạo loạn chính trị và đưa người vượt biên dịp lễ Noel năm 2004; vận động quần chúng giao nộp gần 300 khẩu súng các loại...

ADQuảng cáo

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, các cấp ủy đảng và chính quyền đã nỗ lực tìm tòi những cách thức quản lý mới, tiến hành xây dựng các mô hình điểm về xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa, nhà trường văn hóa..., phát động các đợt thi đua ngắn hạn và dài hạn trong ngành Giáo dục, ngành Y tế..., đổi mới cơ chế, chính sách để tạo điều kiện cho văn hóa - xã hội phát triển, huy động các nguồn lực sẵn có tại địa phương và nguồn lực của Trung ương đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực hiện có hiệu quả chính sách đối với đồng bào các dân tộc thiểu số...

Sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh đã có bước phát triển nhanh cả về chất lượng và quy mô; việc đầu tư đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giáo dục được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng các cấp, các ngành chú trọng. Nhờ vậy, hệ thống trường, lớp ngày càng phát triển, đến năm 2010, toàn tỉnh có 319 trường từ cấp học mầm non đến trung học phổ thông, với trên 137 ngàn học sinh; trong đó có trên 46 ngàn học sinh dân tộc thiểu số; các điểm trường lẻ của hệ thống trường tiểu học đã được mở rộng đến các điểm dân cư. Hầu hết các trường học phổ thông, các trường dân tộc nội trú tỉnh và huyện được đầu tư, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu giáo dục của từng ngành học, cấp học. Hệ thống các trường dạy nghề được hình thành và phát triển, toàn tỉnh có 12 trường và trung tâm dạy nghề (7 đơn vị công lập, 5 đơn vị ngoài công lập).

Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên: năm 2009, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 76,09%; tỷ lệ tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông đạt 37,7%; có 1.981 học sinh thi đỗ vào đại học, cao đẳng, tăng 11,3% so với năm 2008 (xếp thứ 37/64 tỉnh, thành phố). Đến năm 2010, hầu hết giáo viên các cấp học đều đạt chuẩn hóa và trên chuẩn; có 97% trường trung học cơ sở sử dụng giáo án điện tử để giảng dạy và 100% trường trung học phổ thông giảng dạy môn tin học...

Công tác xã hội hóa giáo dục đạt được một số kết quả ban đầu, nhất là bậc học mầm non. Nhiều trường tư thục được thành lập; các doanh nghiệp, tổ chức, doanh nhân trên địa bàn và ngoài tỉnh đã tài trợ, ủng hộ tài chính và đất đai để xây dựng cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, cơ bản đã kiên cố hóa trường lớp, đến cuối nhiệm kỳ không còn tình trạng học sinh phải học ba ca.

Cùng với giáo dục - đào tạo, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển, có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng hiệu quả chung của nền kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh và phát huy được tiềm năng sáng tạo trong hoạt động khoa học và công nghệ; tham gia thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ứng dụng kết quả nghiên cứu vào kinh tế, đời sống xã hội, văn hóa, giáo dục của tỉnh. Hội Liên hiệp khoa học  -  kỹ thuật của tỉnh đã được thành lập, từ đó khẳng định vị trí, vai trò và tạo điều kiện tốt hơn cho khoa học - công nghệ phát triển.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân đạt được những kết quả quan trọng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống Nhân dân. Công tác phòng, chống dịch bệnh được chú trọng, không có dịch lớn xảy ra; các dịch bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, tiêu chảy cấp..., số ca mắc bệnh giảm rõ rệt; các dịch bệnh mới, như tay, chân, miệng, cúm A (H5N1)... đã được kiểm soát dập tắt, không để dịch lây lan; vệ sinh an toàn thực phẩm được bảo đảm, không để xảy ra các vụ ngộ độc hàng loạt.

Các chương trình, mục tiêu, dự án y tế quốc gia đều được triển khai đồng bộ và có hiệu quả. Hằng năm, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 7 loại vắc  xin, đạt trên 94%; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2010 còn 27,8%; tỷ suất sinh hằng năm giảm 1%.

Thực hiện Chỉ thị số 26-CT/TU ngày 16/11/2005 của Tỉnh ủy về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã được các cấp ủy đảng, chính quyền trong tỉnh quan tâm chỉ đạo; các ngành chức năng đã tuyên truyền vận động và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác truyền thông dân số - kế hoạch hóa gia đình đã được triển khai đến các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh; nhận thức của xã hội đã có những chuyển biến tích cực về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, các ngành chức năng phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và đã đạt được một số kết quả nhất định, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,7%...

Công tác khám, chữa bệnh ngày càng được chú trọng, đáp ứng nhu cầu cơ bản trong việc chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, từng bước triển khai và mở rộng các dịch vụ y tế kỹ thuật cao; đặc biệt, đã tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, các đối tượng chính sách được khám, chữa bệnh miễn phí, góp phần thực hiện công bằng xã hội; hằng năm bình quân số lượt khám/đầu người đạt trên 1,2 lần. Công tác xã hội hóa y tế bước đầu đạt những kết quả đáng khích lệ.

Xuất phát từ một tỉnh mới thành lập, tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí còn hạn chế, tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu trong chăm sóc sức khỏe Nhân dân, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông đã tập trung nguồn lực đầu tư, củng cố và nâng cao năng lực hệ thống y tế từ tỉnh đến huyện và xã một cách toàn diện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân. Đến năm 2010, ngành Y tế đã phấn đấu đạt 15 giường bệnh/vạn dân (không kể giường bệnh tuyến xã); 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế; hoàn thành xây dựng đưa vào sử dụng Bệnh viện Đa khoa tỉnh.

Văn hóa, thể dục - thể thao và thông tin - truyền thông có chuyển biến tích cực và phát triển đa dạng. Văn hóa - văn nghệ được chú trọng phát triển cả chiều rộng, lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cơ sở” đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng đời sống văn hóa chung của Nhân dân. Năm 2009, có 80% gia đình, gần 6% xã, phường, thị trấn; 60% thôn, buôn, tổ dân phố; 90% cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu văn hóa. Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội đã đi dần vào nền nếp. Thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng trên cả ba tuyến tỉnh, huyện và xã, nhất là các huyện mới. Công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống được chú trọng; phong trào văn hóa - văn nghệ ở cơ sở được phát triển đến các vùng nông thôn, biên giới. Các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của các dân tộc thiểu số được sưu tầm, bảo tồn và tôn tạo...

Phong trào thể dục, thể thao có bước phát triển nhanh, công tác xã hội hóa thể dục - thể thao bước đầu có kết quả, nhiều câu lạc bộ thể thao được hình thành và hoạt động tốt. Hằng năm, Hội khỏe Phù Đổng được tổ chức và thành tích ngày càng cao hơn. Tỉnh Đắk Nông chú trọng đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động Trung tâm thể dục - thể thao cấp tỉnh.

Tuy còn non trẻ, nhưng công tác báo chí, phát thanh, truyền hình của tỉnh đã có nhiều cố gắng nhằm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Chương trình phát sóng cho đồng bào dân tộc thiểu số được mở rộng để phục vụ cho cả đồng bào ở vùng sâu, vùng xa. Báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình, mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu thông tin, truyền thông của Nhân dân trong tỉnh.

Ngày 5/7/2007, Tỉnh ủy Đắk Nông đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU về giảm nghèo giai đoạn 2007 - 2010. Mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2007 - 2010, được Đảng bộ tỉnh xác định: Nhà nước hỗ trợ các chính sách, dự án nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất cho người nghèo, hộ nghèo, xã vùng III và xã khó khăn. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm bền vững, hạn chế thấp nhất hộ nghèo mới và đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 10 - 11% ngang bằng với tỷ lệ bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, phấn đấu đến năm 2008 cơ bản không còn hộ nghèo và hằng năm giảm mạnh hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, để đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ còn dưới 15% trên tổng số hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.

Lãnh đạo văn hóa - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2005-2010

Với quyết tâm chính trị đưa tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh xuống ngang bằng mức của cả nước, trong quá trình triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TU, Đảng bộ tỉnh tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở và Nhân dân trong công tác giảm nghèo; đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành để thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo, từ đó tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo, xã nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản.

Cùng với việc thực hiện các chương trình mục tiêu giảm nghèo, tỉnh đã dành một phần đáng kể các nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất, phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Các chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát, tặng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết được Nhân dân hưởng ứng, đồng tình cao. Đặc biệt, các hộ nghèo được quan tâm giúp đỡ, tài trợ về vật chất và tinh thần của các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp và Nhân dân các tỉnh trong cả nước; từ đó tạo ra được ý thức, tình cảm xã hội trong việc hỗ trợ người nghèo vượt qua khó khăn.

Trong 5 năm (2005 - 2010), tỉnh đã tiến hành đào tạo nghề cho khoảng 25 ngàn lao động nông thôn, đạt 80% kế hoạch; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, bình quân mỗi năm là 4%. Đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 13,28% và tỷ lệ hộ cận nghèo còn 5,76%.

Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, tiếp tục phát triển sâu rộng, việc chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, các hộ nghèo và những người có hoàn cảnh neo đơn, bất hạnh, tật nguyền... ngày càng được cộng đồng xã hội quan tâm, đưa lại hiệu quả thiết thực, thể hiện trong chủ trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền các cấp, cũng như trong ý thức của Nhân dân.

Chính sách dân tộc và tôn giáo được quán triệt và đã được Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân trong tỉnh thực hiện có kết quả tốt. Thông qua các chương trình, chính sách dân tộc của Trung ương (chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo ở thôn, bản, xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 132, 134, 159, 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định số 33/QĐ-TTg; Chương trình 135, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg...), và cùng với sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, chính sách dân tộc thực hiện trên địa bàn Đắk Nông đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Tỉnh đã đầu tư trên 550 tỉ đồng để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài các chính sách chung của Trung ương, tỉnh còn có các chủ trương và giải pháp đặc biệt để hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: Chương trình phát triển bền vững 12 bon, buôn; chương trình  kết  nghĩa giữa các cơ quan, đơn vị với bon, buôn; chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số..., góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tinh thần đoàn kết các dân tộc ngày càng cao trong việc giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế. Sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng theo đúng đường hướng hành đạo và pháp luật của Nhà nước, các giáo dân của các giáo hội ngày càng tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng.

Lãnh đạo văn hóa - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2010-2015

Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về phát triển nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ X xác định phương hướng: “Tập trung phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hạ tầng thiết yếu về kinh tế - xã hội và đô thị hạt nhân, thu hút đầu tư...”. Để cụ thể hóa phương hướng, ngày 10/8/2011, Tỉnh ủy Đắk Nông ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020, với mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến năm 2015, số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực bảo đảm được cơ bản yêu cầu phát triển theo mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đề ra và đến năm 2020, đạt mức bình quân của cả nước; đồng thời Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2015.

Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy, các cấp ủy, chính quyền từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở đã từng bước đổi mới nhận thức về phát triển và sử dụng nhân lực; hằng năm đều tổ chức đánh giá, tổng kết để cập nhật, hoàn thiện kế hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung.

Tỉnh Đắk Nông đã tiến hành xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên phạm vi toàn tỉnh, phù hợp với ngành nghề đào tạo, với vị trí công tác, với các tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Từ năm 2012 trở đi, tỉnh đã áp dụng hình thức thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức mang tính cạnh tranh theo quy định; tiến hành công tác quy hoạch cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020. Đồng thời, rà soát việc tổ chức thực hiện các chính sách về công tác cán bộ, dạy nghề của Trung ương, của tỉnh, trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung, ban hành các chính sách mới phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương.

Quá trình thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy được thực hiện song song với quá trình thực hiện nghị quyết về phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao, qua đó, tỉnh đã từng bước xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực cụ thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ này. Từ năm 2011, bước đầu tỉnh đã liên kết với các cơ sở đào tạo trong nước đào tạo một số cán bộ, công nhân kỹ thuật có chất lượng cao phục vụ cho ngành Nông nghiệp trong những năm tiếp theo...

Quy mô giáo dục và đào tạo tăng mạnh, mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng ở các cấp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ cấu đào tạo nghề có bước phát triển. Có thêm nhiều điểm trường lẻ ở các vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh đến trường. Cơ sở vật chất giáo dục và đào tạo được cải thiện đáng kể; từng bước thực hiện xóa phòng học tạm, phòng học mượn hoặc thiếu công trình vệ sinh, nước sạch. Công tác xã hội hóa giáo dục bước đầu đạt một số kết quả, đã huy động được các nguồn lực xã hội góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được chú trọng, năm 2015 đã có 83/356 trường (23,31%) đạt chuẩn ở các cấp học. Quản lý giáo dục có chuyển biến tích cực, việc đổi mới phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường trở nên phổ biến và có hiệu quả hơn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng đội ngũ quản lý giáo dục và giáo viên. Tỉnh tập trung thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng học tập, nhất là cho học sinh dân tộc thiểu số các cấp, chú trọng nâng cao khả năng tiếng Việt, bồi dưỡng học sinh yếu kém. Thực  hiện Chỉ thị số 15-CT/TU của  Tỉnh  ủy về tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, đến năm 2015, toàn tỉnh đã hoàn thành công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, duy trì kết quả và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở, phát triển trường chuyên và dạy nghề.

Cơ sở vật chất y tế được chú trọng đầu tư nâng cấp. Công tác khám, chữa bệnh ngày càng được chú trọng, chất lượng điều trị và dịch vụ y tế được cải thiện; từng bước triển khai và mở rộng các dịch vụ y tế kỹ thuật cao; thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong khám, chữa bệnh và bảo hiểm y tế; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng chính sách xã hội khám bệnh, cấp thuốc bằng bảo hiểm y tế. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế tính đến năm 2015 đạt 71,5%, thực hiện tích cực chủ trương mở rộng đối tượng bảo hiểm y tế theo lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Công tác phòng, chống dịch bệnh được triển khai tích cực, kịp thời; dịch bệnh được kiểm soát, không có dịch lớn xảy ra. Công tác thanh tra, kiểm tra thuốc, cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng.

Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở được đầu tư nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân; nâng cấp trang thiết bị Bệnh viện Đa khoa tỉnh, đưa vào sử dụng 5 bệnh viện đa khoa tuyến huyện quy mô từ 50 đến 150 giường bệnh; kinh nghiệm, năng lực, trình độ của đội ngũ y, bác sĩ ngày càng được nâng cao; các chính sách trong thu hút, sử dụng, ưu đãi cán bộ trong ngành được ban hành. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Công tác xã hội hóa y tế đạt được nhiều kết quả.

Đảng bộ tỉnh tiếp tục lãnh đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, ngày 13/4/2012, Tỉnh ủy Đắk Nông ban hành Chỉ thị số 11-CT/TU về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng triển khai, thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trong giai đoạn mới.

Thiết chế văn hóa ở các cấp được tăng cường, các hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử đã được tích cực thực hiện; các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể  tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ, các hoạt động văn hóa, văn nghệ đã chú trọng nhiều hơn đến nội dung tư tưởng, chất lượng nghệ thuật.

Các hoạt động văn học - nghệ thuật đã có những đổi mới và phát triển phong phú, đa dạng, phản ánh sinh động về truyền thống đấu tranh cách mạng, lao động sáng tạo của Nhân dân, có nhiều tác phẩm tốt trong nhiều loại hình nghệ thuật..

Phong trào thể thao quần chúng phát triển nhanh với nhiều hình thức, quần chúng Nhân dân tham gia luyện tập thể thao ngày càng nhiều; thể thao được chú trọng đầu tư và đã đạt được các kết quả đáng khích lệ. Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao đạt kết quả bước đầu.

Hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình tiếp tục phát triển. Đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị từng bước được hoàn thiện; đầu tư nhiều trang web quản lý, nâng cao chất lượng các chương trình, đưa chương trình truyền hình của tỉnh Đắk Nông lên sóng vệ tinh Vinasat; phủ sóng phát thanh và truyền hình toàn tỉnh, phát hành báo điện tử, báo tiếng dân tộc thiểu số...

Công tác giảm nghèo, các chính sách đền ơn đáp nghĩa, bảo trợ xã hội của tỉnh được điều chỉnh bổ sung kịp thời, phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương, bảo đảm an sinh xã hội. Thực hiện đồng bộ đề án giảm nghèo theo các hướng tập trung nguồn lực, xây dựng các giải pháp cụ thể, đầu tư có trọng điểm nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững; đặc biệt đối với địa bàn còn nhiều khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Công tác đào tạo nghề ngày càng được chú trọng về chất lượng, đồng thời gắn với giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo.

Đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao; bộ mặt bon, buôn có nhiều thay đổi, tiến bộ. Các dân tộc ngày càng đoàn kết, giúp nhau vươn lên xóa đói, giảm nghèo, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế. Hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng được quản lý theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng; các chức sắc, tín đồ tôn giáo hoạt động đều thực hiện theo pháp luật và giáo luật; đồng bào có đạo ngày càng tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được triển khai thực hiện tốt hơn, đặc biệt trong bố trí công việc, nâng cao năng lực, chăm sóc sức khỏe. Công tác chăm sóc, bảo về quyền trẻ em được xã hội quan tâm.

Khoa học và công nghệ có những bước phát triển mới. Tiềm lực khoa học và công nghệ từng bước được tăng cường, củng cố; một số chính sách thu hút nguồn nhân lực trên lĩnh vực khoa học và công nghệ của tỉnh được ban hành. Đội ngũ trí thức không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng.

Song song với việc triển khai đồng bộ và có hiệu quả các chương trình, chính sách dân tộc của Trung ương Đảng, trong 5 năm 2010 - 2015, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Nông đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều chương trình, chính sách đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó đáng chú ý là: Quyết định số  526/QĐ-UBND ngày 27/4/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh trong đó phê duyệt quy hoạch để đưa 39 bon, buôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số vào đầu tư và kêu gọi đầu tư giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020; Kế hoạch số 372/KH-UBND ngày 14/3/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh về Đề án nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm học 2012 - 2013 đến năm học 2015 - 2016, theo đó tỉnh đã đầu tư 11,59 tỉ đồng để thực hiện kế hoạch; Quyết định số 10/2012/QĐ-UBND ngày 1/6/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về hỗ trợ lãi suất vay vốn sản xuất, kinh doanh tại Ngân hàng thương mại đối với đồng bào dân tộc thiểu số... Những chương trình và chính sách thiết thực này đã góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo trong cộng đồng dân tộc thiểu số, thực hiện giảm nghèo bền vững, hạn chế tình trạng tái nghèo và phát sinh nghèo mới, đồng thời tiếp tục tạo cơ hội để người nghèo vươn lên phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Công tác xây dựng Đảng giai đoạn 2005-2010

Trong 5 năm (2005 - 2010), Đảng bộ tỉnh Đắk Nông có 13 đảng bộ trực thuộc, với 15.447 đảng viên.

Với nhận thức công tác xây dựng Đảng là then chốt, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX vào cuộc sống, trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông luôn luôn giữ vững tinh thần đoàn kết và tính chiến đấu; chấp hành nghiêm và ra sức vận dụng, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở.

Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông đã lãnh đạo triển khai sâu rộng đến tận cơ sở và toàn dân, bước đầu tạo được sự chuyển biến tích cực trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, từ nhận thức đến hành động, nhiều tấm gương điển hình tốt đã được biểu dương và nhân rộng.

Công tác đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng ngày càng chặt chẽ, theo hướng lấy chất lượng là chính; bình quân trong 5 năm (2005 - 2010) có 68,87% tổ chức cơ sở đảng được công nhận trong sạch, vững mạnh, tăng 7,87% so với năm 2005; coi trọng xây dựng chi bộ ở thôn, bon, tổ dân phố, đến nay, 100% thôn, buôn, bon, tổ dân phố đã có chi bộ.

Công tác phân loại đảng viên luôn được chú trọng đúng mức, tỷ lệ bình quân trong 5 năm (2005 - 2010) đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 78,18%. Công tác phát triển đảng viên được các cấp ủy đặc biệt quan tâm; trong 5 năm (2005 - 2010) kết nạp được 6.685 đảng viên, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 14.857 đảng viên.

Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng được chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm. Trong 5 năm (2005 - 2010), cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra 547 đảng viên và 25 tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra 422 tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng; kiểm tra tài chính Đảng đối với 398 tổ chức; giải quyết tố cáo 176 đảng viên và 4 tổ chức đảng; thi hành kỷ luật 13 tổ chức và 560 đảng viên; giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng đối với 18 đảng viên; giám sát 1.275 đảng viên và 287 tổ chức đảng; kiểm tra 6.722 đảng viên và 774 tổ chức đảng theo Điều 30 của Điều lệ Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát đi vào nền nếp, chất lượng, hiệu quả, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, hạn chế các mặt trì trệ, ách tắc, tiêu cực, thiếu trách nhiệm... của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.

Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai đồng bộ. Việc điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm và đánh giá cán bộ thực hiện theo đúng quy trình, nguyên tắc, quy định phân cấp quản lý; bố trí, sử dụng hợp lý, nên đã phát huy được năng lực, sở trường của đội ngũ cán bộ các cấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ được quan tâm, từng bước đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa; đã đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho 737 học viên (trong đó có 63 cán bộ dân tộc thiểu số và 105 nữ); trung cấp lý luận chính trị cho 1.046 học viên (trong đó có 182 cán bộ dân tộc thiểu số), về chuyên môn nghiệp vụ đào tạo 140 thạc sĩ (trong đó sự nghiệp giáo dục có 85 người, sự nghiệp y tế có 25 người và các ngành khác có 30 người); đào tạo tại chức cử nhân luật tại tỉnh cho 98 người, cử tuyển đào tạo bác sĩ cho 220 người (trong đó dân tộc thiểu số có 97 người); đào tạo sư phạm cho 270 người (trong đó dân tộc thiểu số có 215 người); mở 11 lớp trung cấp các chuyên ngành quân sự, công an, văn thư lưu trữ, hành chính, thanh vận, văn hóa... với 258 học viên (trong đó dân tộc thiểu số có 55 người và nữ có 132 người), đáp ứng bước đầu yêu cầu cho sự phát triển của tỉnh.

Đảng bộ tỉnh đã tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đạt kết quả khá tốt.

Công tác nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng được quan tâm. Nhiều công trình lịch sử có ý nghĩa lịch sử lớn được xuất bản, như: Lịch sử phong trào khởi nghĩa N’Trang Lơng (1912 - 1936); Lịch sử Di tích cách mạng Nhà ngục Đắk Mil (1941 - 1943); Lịch sử căn cứ kháng chiến Nâm Nung... góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục phát huy truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Ngày 9/10/2013, Tỉnh ủy Đắk Nông đã ban hành Chỉ thị số 16-CT/TU về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên trong giai đoạn mới. Trong 5 năm 2010 - 2015 Đảng bộ đã kết nạp được 6.295 đồng chí, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 21.300 đồng chí; “xóa” được 18 thôn, bản “trắng” đảng viên là người tại chỗ. Công tác đảng viên đã đi vào nền nếp; sinh hoạt cấp ủy, chi bộ thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Nội dung và tính chất sinh hoạt được nhiều chi bộ đổi mới, từng bước có chuyển biến tích cực.

Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, đổi mới về nội dung, cách làm; chất lượng sát với tiêu chuẩn của từng chức danh; quy trình các bước tiến hành khá chặt chẽ, bảo đảm tính dân chủ, công khai, tạo được sự thống nhất cao trong nội bộ. Kết quả trong nhiệm kỳ đã cử đi đào tạo cao cấp lý luận chính trị 420 đồng chí (trong đó hệ tập trung 114 đồng chí); trung cấp lý luận chính trị 687 đồng chí; đào tạo sau đại học 217 đồng chí và cử nhiều lượt cán bộ, công chức tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chương trình quản lý nhà nước và các nghiệp vụ công tác khác, tạo nguồn được hơn 300 cán bộ trẻ trong toàn tỉnh.

Công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm. Công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Trong 5 năm 2010 - 2015 cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 1.290 tổ chức đảng và 10.763 đảng viên theo Điều 30 Điều lệ Đảng; kiểm tra 667 tổ chức đảng có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong đảng; kiểm tra tài chính Đảng đối với 539 tổ chức; kiểm tra 49 tổ chức đảng và 715 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết tố cáo 1 tổ chức đảng và 133 đảng viên; thi hành kỷ luật 13 tổ chức đảng và 753 đảng viên; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với 18 đảng viên; giám sát 854 tổ chức đảng và 1.779 đảng viên... tăng nhiều lần về quy mô và số lượng so với nhiệm kỳ trước đây.

Công tác dân vận có bước đổi mới về nội dung, phương thức, đề cao dân chủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị bảo đảm nguyên tắc, bám sát chức năng nhiệm vụ, quy chế và có nhiều đổi mới, nền nếp và hiệu quả.

Lĩnh vực quốc phòng - an ninh  và đối ngoại của tỉnh trong giai đoạn 2005 - 2010

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Nông, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang đã được phát huy, từ đó đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội để thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ..., không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, xâm nhập trái phép; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân từng bước được củng cố.

Các cấp, các ngành tích cực đẩy mạnh phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc"; phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" đã có sự gắn kết với nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình hình tội phạm từng bước được kiềm chế, trật tự xã hội được giữ vững. Lực lượng vũ trang của tỉnh được xây dựng, củng cố theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang không ngừng được nâng lên.

Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với lực lượng vũ trang được tăng cường; hiệu lực quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ an ninh - quốc phòng địa phương được nâng cao. Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng với các lực lượng vũ trang trong triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương đạt những kết quả nhất định.

Thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, ngày 31/10/2007, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 23-CT/TU về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Sau hơn 3 năm thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TU và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh đã được các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả, từ đó góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh các cấp được củng cố, kiện toàn, công tác bồi dưỡng và giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng được thực hiện theo đúng nội dung, chương trình và đạt được kết quả quan trọng.

Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh các cấp thường xuyên kiện toàn đủ thành phần theo quy định và hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ. Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh tỉnh phối hợp chặt chẽ với cấp ủy đảng, chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản của Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Trung ương và Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Quân khu 5 triển khai nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ và toàn diện trong hệ thống chính trị và Nhân dân.

Công tác giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng được chú trọng, chất lượng từng bước được nâng lên; hằng năm, Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh tỉnh Đắk Nông chỉ đạo Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh cấp huyện, cấp xã rà soát, phân loại, tổng hợp các đối tượng đã và chưa qua bồi dưỡng để tham mưu xây dựng kế hoạch tổ chức bồi dưỡng theo đúng phân cấp.

Thông qua công tác giáo dục đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các ngành, các cấp, các địa phương, đơn vị, làm thất bại     âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hòa bình để phát triển kinh tế, sẵn sàng đánh thắng các kiểu chiến tranh, bảo vệ vững chắc khu vực phòng thủ tỉnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Cùng với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông cũng thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang của tỉnh thực hiện quan hệ hữu nghị chặt chẽ với tỉnh Mondulkiri (Campuchia) trên một số lĩnh vực. Đặc biệt, từ năm 2005 đến năm 2010, các hoạt động thăm viếng, hợp tác, trao đổi thông tin giữa lãnh đạo hai tỉnh, giữa các huyện biên giới, cũng như công tác đối ngoại nhân dân, quan hệ phối hợp giữa lực lượng vũ trang hai tỉnh được tăng cường và đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết giữa hai quốc gia, dân tộc, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia.

Hoạt động đối ngoại, hợp tác kinh tế, văn hóa - xã hội với các doanh nghiệp nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ và chính phủ của các nước từng bước phát triển; nhiều dự án đầu tư phi chính phủ có tác dụng xã hội thiết thực; các hoạt động đầu tư và hợp tác chuyên gia, doanh nghiệp bảo đảm hiệu quả và đúng pháp luật. Những mối quan hệ hợp tác đó chủ yếu tập trung vào một số vấn đề liên quan đến công tác bảo vệ an ninh biên giới; phòng, chống vượt biên, xâm nhập; phòng, chống buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, chưa chú trọng và tăng cường làm tốt công tác đối ngoại trên lĩnh vực quan hệ hợp tác phát triển kinh tế giữa hai địa phương.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thường xuyên lãnh đạo triển khai thực hiện nghiêm túc và chủ động đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Tỉnh đã thực hiện ký kết văn bản hợp tác toàn diện với tỉnh Mônđulkiri (Campuchia) trên tất cả các lĩnh vực; hình thành khá rõ nét các kênh ngoại giao của chính quyền, lực lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội giữa hai tỉnh với biện pháp, hình thức ngoại giao đa dạng, phong phú, linh hoạt và sáng tạo. Qua đó, góp phần tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết giữa hai quốc gia, dân tộc; phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Đồng thời, công tác phân giới, cắm mốc được triển khai kịp thời, hiệu quả và đã tổ chức, phối hợp cắm mốc biên giới giữa tỉnh Đắk Nông và tỉnh Mondulkiri (Campuchia) được 111,6 km, đạt trên 86% kế hoạch, tính từ mốc số" 48 thuộc huyện Cư Jút, giáp ranh tỉnh Đắk Lắk đến mốc số" 55 tại huyện Tuy Đức, giáp ranh tỉnh Bình Phước, với tổng chiều dài hơn 130 km. Tính đến năm 2015, đã hoàn thành việc cắm 8 vị trí, với 16 mốc (trong đó có 3 vị trí mốc ba; 2 vị trí mốc đôi và 3 vị trí mốc đơn). Hai bên đã thống nhất được 18 vị trí và xác định 37 cọc dấu; quy thuộc 47 vị trí cồn bãi (Việt Nam 19, Campuchia 28); đồng thời tiếp tục khảo sát 22 vị trí để xây dựng mốc phụ. Riêng khu vực 49 km2 (huyện Tuy Đức), hai bên sẽ tiếp tục đàm phán giải quyết. Bên cạnh đó, hai tỉnh thường xuyên duy trì có hiệu quả các nội dung theo Biên bản hợp tác về bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự biên giới Việt Nam - Campuchia giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Nội vụ Campuchia; tổ chức giao ban, gặp gỡ công tác biên phòng với phía Campuchia qua công tác phối hợp tuần tra, kiểm soát biên giới. Phía Việt Nam đã hỗ trợ, giúp đỡ chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang của tỉnh Mônđulkiri về vật chất và tinh thần; thăm và tặng quà, khám bệnh, cấp phát thuốc,... tạo mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa hai tỉnh. Tình hình biên giới luôn được duy trì ổn định.

Các hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh có nhiều tiến bộ, đến năm 2015 đã thu hút thêm 8 dự án ODA với tổng số vốn là 2.608 tỉ đồng, tiếp tục triển khai ba dự án có mức vốn là 1.474 tỉ đồng; thu hút thêm 4 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 20 triệu USD. Xuất, nhập khẩu có mức tăng trưởng cao (gần 23%). Đáng chú ý là hoạt động đối ngoại của tỉnh được mở rộng trên nhiều lĩnh vực; đến năm 2015, tỉnh Đắk Nông đã có quan hệ với 4 quốc gia và các tổ chức, định chế" tài chính quốc tế", đó là: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch, Cộng hoà Liên bang Đức, JICA, WB, ADB, IFAD, SIDA, Quỹ Toàn cầu, GTZ...

(Còn nữa)

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Những kết quả nổi bật dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Nông
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO