Truyện ngắn: Rừng bạc đầu thương nhớ

08/12/2011 15:07

Những ngày ở Tà Lài, tôi chú ý đến một ông già đầu bạc phơ, chiều chiều ngồi chẻ nứa, đan lờ bên bờ sông Đồng Nai. Người Châu Mạ trong xóm Ka Lúi nói ông tên Tánh, nhưng giọng nói lơ lớ như người S’Tiêng...

ADQuảng cáo

Những ngày ở Tà Lài, tôi chú ý đến một ông già đầu bạc phơ, chiều chiềungồi chẻ nứa, đan lờ bên bờ sông Đồng Nai. Người Châu Mạ trong xóm Ka Lúi nóiông tên Tánh, nhưng giọng nói lơ lớ như người S’Tiêng. Ông Tánh cũng ở độ tuổicổ lai hy rồi nhưng rất mê nhạc. Không vào rừng đặt bẫy thì ra sông đặt lờ. Cứxong việc là ông Tánh về nhà mở cát-sét nghe ca hát suốt ngày. Người Ka Lúikhông gọi Tánh bằng ông, bằng thằng gì cả mà cứ gọi tên trống không. “Tánh đancho mình cái lờ thật chắc vào nghe. Cái cũ, cá lọt đi chơi hết”.

Tánh đan lờ, vừa bán vừadùng. Cái lờ là một loại dụng cụ để bắt cá, đan bằng tre hay nứa hai đầu nhỏ,giữa phình ra, cá đã vào lờ thì không ra được. Vừa đan, Tánh nghêu ngao hát:“Công anh chẻ nứa đan lờ. Để cho con cá vượt bờ nó đi”... Đêm đêm Tánh mang lờra sông, chỗ ông đã đặt tre ngăn dòng chảy, thả chuôm, đặt lờ vào đó rồi về.Sáng mai ra kéo lờ lên, đổ cá ra rổ. Tôm cá vào nhiều, thì mang ra chợ bán lấytiền đong gạo, mua rượu, mua rau. Cá ít thì đem về kho, làm thức ăn. Ông nghehát, uống rượu một mình, rồi một mình nói chuyện với cây thiên tuế cả buổi, lạigọi cây bằng em nữa mới lạ chớ. Họ kể nhiều chuyện bí hiểm về ông già Tánh, gợicho tôi một sự tò mò. Một buổi chiều khi qua trước cửa nhà Tánh, tôi nghe ôngđang mở nhạc Phan Huỳnh Điểu. Giọng Bảo Yến đang hát thơ Xuân Quỳnh: “Nhữngngày không gặp nhau biển bạc đầu thương nhớ”... Kế đó là giọng Thu Hiền yêu dadiết với lời thơ Hồng Đào: “Yêu nhau sao chẳng nói, để chiều buồn mênh mông”.Trời ơi! Cái ông già Bảy Điểu lãng mạn đến thế lại còn có ông thính giả sắp kềmiệng huyệt rồi mà còn “Anh yêu em sao chẳng biết để con đò lênh đênh sangsông. Làm cho nổi sóng gió trong lòng!”. Tôi đứng nán dưới gốc mận, muốn nghehát nữa. Nhưng hết bài “Sang sông”, cái cát-sét trở lại bài đầu “Thuyền vàbiển”. Nghe đi nghe lại một vài bài cũng chán, tôi đằng hắng thật to và đánhbạo bước vào nhà. Tánh đang nằm tréo chân chữ ngũ, đầu trên cái gối mây, taygác trán, rung đùi. Thấy có người lạ vào, ông với tay tắt máy, lồm cồm dậy nhìntôi. Mắt ông đỏ hoe, có ngấn nước. Tánh đưa tay áo quệt ngang mắt. Rõ ràng ôngđang khóc. Tôi rụt rè nói: “Chào bác!”. Tánh buông một tiếng: “Chào!”, như némviên cuội xuống ao “bủm!”. “Cha này tiếc lời lắm đây” - Tôi nghĩ. “Chắc khó bắtchuyện”. Tôi bèn bịa lý do vì sao mình đột ngột vào nhà Tánh: “Thưa bác, cháumuốn hỏi thăm nhà cô ca sĩ người Châu Mạ, tên là Ka Thinh. Cháu công tác ở ĐàiĐồng Nai, đang đi sưu tầm dân ca của các dân tộc. Bác biết nhà”... Tánh khoáttay chặn lời tôi: “Ờ, biết. Để chỉ cho!”.

- Bác thích ca hát. Chắcbác biết các làn điệu dân ca. Bác người S’Tiêng hay Châu Mạ?

- Tui a? Quảng Trị.

- Vậy cháu cũng ngườiQuảng Trị nè. Bác Triệu Phong hay Hải Lăng.

- Tui dân Chợ Cạn, TriệuPhong. Anh người Quảng Trị thật a? Nếu thiệt dân Quảng Trị phải biết câu này:“Trăng lên côi động Mu Rùa. O cho tui “đ” một cái, đến mùa tui trả khoai lang”.Tôi bật cười: “Động Mu Rùa gần làng Phường Sơn của cháu. Vậy mình là đồnghương!”. Tánh quàng đôi tay gầy ôm người tôi, vỗ vào lưng: “Trời ! Lâu lắm mớicó người Quảng Trị ghé qua. Ngồi. Ngồi. Uống rượu hí? Dân Quảng Trị mình cựcnhất nước. Hè? Vì rứa mà cái câu ca dao, hò vè để lại cho con cháu cũng khổ”.

Chỗ ông Tánh đãi rượu tôilà cái giường ọp ẹp trải manh chiếu rách. Nằm ngủ cũng đó mà bàn ăn, nơi nghenhạc cũng đó. Trong căn nhà tuềnh toàng còn có cái bàn bằng tre. Trên bàn làcái rương gỗ, chắc là để đựng áo quần. Trên mặt rương có bức hình lồng kiếngđàng hoàng. Có lẽ sang nhất trong nhà là bức hình đó: Một cô gái trẻ, tuổichừng đôi mươi, tóc xõa ngang vai, mặc quân phục lính ngụy, đeo lon trung sĩ.Chắc là con cháu gì của ông già. Hớp vài ngụm xị đế trong vắt với đồ mồi là mấyvuông đậu phụ, chấm mắm tôm, tôi nhìn quanh hỏi: “Bác Tánh ở một mình?”. Ônggià trừng mắt hỏi lại tôi: “Sao lại một mình? Hai đó chớ”. Và ông đưa tay chỉhình cô gái trung sĩ. Đó là buổi đầu làm quen với Tánh. Suốt thời gian công tácở Tà Lài, tôi đến chơi với ông luôn. Hôm thì mang theo chai “Lúa mới”, hôm thìlít “Gò đen” kèm gói lòng chó, bọc dựa mận. Ngồi với Tánh lâu ngày mới thấu tỏđây là một con người thừa sống thiếu chết, biết đủ mọi thứ trên đời nhưng chưabiết mùi đàn bà là gì. Rất biết yêu, nhưng chỉ yêu có một người với một mốitình sâu nặng nhưng đơn phương. Đơn phương chịu đựng, đơn phương đau khổ... Mốitình với cô gái trung sĩ đang ngự trên rương áo quần của ông đặt trên cái bàntre ấy. Chuyện Tánh kể trong các bữa nhậu cứ lan man, câu nọ xọ việc kia, phảichấp mãi mỗi lần một ít, mới có đầu có đuôi.

Thuở nhỏ, Tánh theo cha làmột ông đội kiểm lâm ra đóng đồn tận Rú Nầm ở Hà Tĩnh. Khi Mỹ vào, ngụy ráoriết bắt lính, Tánh trốn chui nhủi mãi rồi cũng bị bắt. Một lão đại úy coi tù ởnhà lao Thừa Phủ được thuyên chuyển vào Biên Hòa, liền cho Tánh theo làm línhhầu vì Tánh biết cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Lão Đại úy tên là Điện, NguyễnThúc Điện. Nhưng tính tình hơi điên điên khùng khùng nên mọi người gọi hắn làđại úy “điên nặng”. Hắn thích vừa đánh tù vừa uống rượu. Hắn nói: “Đánh nátthịt da, thân tù bật máu tươi ra, mình nhìn uống rượu mới đã”. Vào Biên Hòađược mấy tháng, thằng Điện được điều lên thượng nguồn sông Đồng Nai, coi trạitù Tà Lài. Tánh lại theo hầu Điện. Không chỉ biết tiếng Anh để tán cố vấn xinrượu, xin thuốc lá cho Điện, Tánh còn biết nấu món “bún bò giò heo” và “giảcầy” rất tuyệt, nên Điện không rời Tánh ra được. Hắn quý Tánh hơn vàng!

Ở trại tù Tà Lài có nhữngngười lính và cán bộ Việt cộng cỡ bự. Nếu khủng bố tra tấn hoặc dụ dỗ mua chuộcđược vài người khai báo ra những cơ sở bí mật của đối phương, thì cái lon đạitá chẳng mấy chốc sẽ đeo trên cổ áo Điện. Hắn mê gái, mê ăn nhậu và mê quyềnchức như điên. Tra tấn, khai thác chẳng được gì, Điện bèn nghĩ ra mỹ nhân kế.Hắn xuống trung tâm Thúy Nga xin quan trên biệt phái một cô gái đẹp về thựchiện mưu ma của hắn. Ngày đầu tiên người đẹp đến trại, Điện đã sà vào tán ngay.Nhưng cô trung sĩ này cứng lắm: “Thưa đại úy, tôi đến đây thực thi nhiệm vụ củaPhượng Hoàng, chớ không phải làm người tình của ngài!”. Điện cụt hứng còn Tánhthì bàng hoàng: Rừng Cát Tiên bây giờ mới có tiên hiện về thật. Trung sĩ TrầnHoàng Thanh có mái tóc đen nhánh bỏ dài sau lưng. Với đôi mắt huyền ấy, hai lúmđồng tiền và cái răng khểnh ấy đáng giá ngàn vàng. Giọng nàng trong trẻo đếnthánh thót. Phải nói nàng mặc quân phục hay áo dài đều đẹp như nhau. Tánh ngẩnngơ và ước mơ đến một người tình, người vợ đẹp như Thanh.

Điện giao nhiệm vụ choHoàng Thanh phải mê hoặc, quyến rũ cho được tên Việt cộng cứng đầu Lê Bằng.Nghe đồn Bằng là một trong các con hùm xám rừng chiến khu Đ. Chiêu hồi lôi kéođược Bằng về với quốc gia, có lợi hơn đánh tan một trung đoàn quân Bắc Việt.

ADQuảng cáo

Hoàng Thanh đã thâm nhậpnơi giam giữ Lê Bằng. Có khi cùng đi làm lao công với anh, cùng chia nhau nắmcơm tù. Suốt hai tháng trời áp dụng các ngón nghề của CIA dạy thực hiện kế mỹnhân, chẳng hiểu sao càng ngày Thanh càng kính phục và như bị anh Việt cộng hớphồn. Điều đó không qua được con mắt chó sói của Điện. Nhưng hắn cứ để vậy xemsao.

Một đêm, Tánhđang ngủ say thì bị Điện dựng dậy, thét lên: “Con chó cái và thằng Việt cộngtrốn rồi !”. Tánh mắt nhắm, mắt mở trèo lên xe jeep, ngồi sau lưng Điện, Trưởngtrại tù gầm lên: “Bọn đi lùng về báo đã tìm thấy con chó cái đó ở chỗ gốc câythiên tuế. Còn thằng Bằng “vù” rồi !”.

Xe chạy từ Tà Lài về bếnGhềnh rồi bỏ xe chạy bộ vào rừng. Năm sáu cái đèn ba pin dọi thẳng vào gốc câythiên tuế. Hoàng Thanh bị trói vào gốc cây, đầu tóc rũ rượi. Thằng Điện xộcđến, cười ré lên ằng ặc như bị ai bóp họng... Thằng Điện hét lên: “Diễn kịchkhéo quá hí. Hú hí với nhau chán chê rồi bày trò bị trói cho thằng kia thoátêm, hí”. Tánh bỗng kêu lên “Thưa đại tá, để em cởi trói đem hắn về tắm rửa sạchsẽ cho đại tá dùng!”. Hai chữ “đại tá” Tánh cố tình gọi nhầm như gáo nước lạnhgiội lên cái đầu bốc lửa của tên đại úy. Hắn phán: “Được. Đưa nó xuống sông kỳcọ thật sạch, rồi đem ngay về phòng tao!”. Thằng Điện ra đường, lái xe phóngthẳng. Tánh rút dao găm, cắt dây trói và nói thầm với Thanh: “Em đừng sợ, tôiđã có cách”.

Bọn lính canh tù lục đụcbỏ về. Tánh quàng súng ra sau lưng, đưa Thanh xuống sông nhưng chẳng phải đểtắm rửa gì. Hai người ẩn nấp, lắng nghe tiếng giày bọn lính xa dần, liền trởlại chỗ cây thiên tuế, nhặt lại chiếc áo cho Thanh mặc, rồi cùng nhau đi trốn.Họ nhắm hướng sông Đồng Nai, cắt rừng đi ngược lên. Qua Bàu Sấu, rồi Bàu Chim.Đi ngày, đi đêm cố tránh thật xa đồn Tà Lài, tránh sông, tránh đường ô -tô.Đói, họ đào trộm củ mì, bẻ chuối, đu đủ ở rẫy của người S’Tiêng, Châu Mạ. Ngàythứ ba, họ đến được ĐakLưu, nhằm hướng K’Lokít, K’Heng. Rừng càng rậm, họ càngyên tâm vì bọn lính Tà Lài không dám truy tìm trong vùng có lính Giải phóng củaMặt trận. Ngày thứ tư, Thanh rã rời trên lưng cõng của Tánh. Đêm cuối cùngThanh nói: “Bỏ em lại, anh trốn về quê với vợ con đi. Em có người bà con ở CátLộc. Em sẽ nương náu ít lâu ở đó, để chờ tìm anh Bằng”. Tánh nói rằng mình chưavợ con gì nhưng không về quê mà sẽ đưa súng ra hàng Mặt trận. Đêm cuối cùngtrước lúc chia tay họ ẩn nấp trong một hang đá cạnh con suối nhỏ róc rách chảy.Trời lạnh. Tánh ôm chặt Thanh vào lòng. Thanh thủ thỉ tâm sự chuyện mình đã bịBằng thuyết phục như thế nào và hằng tháng nay Thanh đã yêu Bằng. Yêu say đắm,da diết nhưng phải tìm cách cho Bằng trốn. Thanh không thể trốn theo Bằng vìnghĩ mình là con Thiên Nga, là tay chân CIA Mỹ, vì yêu mà trốn theo không khéovạ lây cho Bằng. Thanh đành ở lại và tự hẹn với mình sẽ tìm Bằng khi hết chiếntranh. Được ôm người mình thầm yêu, trộm nhớ trong vòng tay, Tánh sung sướngđến nghẹn lòng. Nhưng anh chỉ nằm lắng nghe. Thanh nói: “Em không như thằngĐiện nghĩ đâu. Người cách mạng họ cao thượng lắm. Em vẫn trong trắng để chờ đợikhi gặp lại Bằng. Nói dại miệng: Nếu sau này anh Bằng rủi có làm sao, em sẽ đitìm Tánh”. Tánh lại xiết chặt Thanh vào lòng và nhiều lần định nói bật ra: “Anhcũng yêu em Thanh ơi ! Anh cũng yêu em ngay từ lần đầu mới thấy em”... NhưngTánh vẫn kìm được mình và vẫn lặng lẽ nằm im rồi ngủ thiếp đi...

“Sau giải phóng mình quayvề rừng Nam Cát Tiên và làm kiểm lâm, gác rừng, giữ rừng, trồng rừng”. Tánh lạilạc mạch câu chuyện tình yêu đang hấp dẫn tôi. Nhưng mặc kệ, cứ để ông ta lạcđề lần nữa xem sao. Tánh tiếp: “Mình bỏ nghề kiểm lâm khi thằng bạn cùng độigác rừng bị bắt bỏ tù”. Đó là chuyện cậu Thoài, chồng của cô gái hát hay và dệtthổ cẩm đẹp nhất xóm Ka Lúi, mà lần đầu gặp, Tánh đã chỉ nhà Ka Thinh cho tôiđến sưu tầm dân ca. Tánh kể rằng có một bọn lâm tặc vào rừng cưa trộm gỗ quý vàsăn bắn bò Gaur quý hiếm. Thoài đã ngăn chặn chúng nhưng chúng vẫn lì lợm khôngnghe, lại còn bắn Thoài. Để tự vệ, Thoài bắn trả nhưng không may một thằng lâmtặc bị trúng đạn, chết. Tòa xử thế nào mà bọn trộm vô tội và anh bảo vệ rừngphải ngồi tù. Bất công thế, nguy hiểm thế đành ra khỏi ngành kiểm lâm. Bỏ nghề,không lương tiền, Tánh đi đặt bẫy kiếm thịt ăn và đi bán thịt rừng ngoài chợ TàLài. Đến khi thấy trên một tờ áp phích có in hình chú cu li hay chú gấu conđang rơi nước mắt, kêu van loài người bằng câu tiếng Anh: “Xin đừng mua tôi - Đunót bai mi !”. Vậy là động lòng trắc ẩn. Tánh liền bỏ nghề đặt bẫy bắt thúrừng, chuyển qua nghề đan lờ, đơm cá.

Tôi lại hỏi: “Biết khổ thếsao lại vào nghề kiểm lâm?”. Tánh hợp một ngụm rượu, đưa tay áo chùi mép rồicười hể hể: “Thì mình học nghề nông-lâm-súc mà. Không làm nghề rừng thì làmgì”. Ông kể tiếp, nhờ đem súng đi tìm Mặt trận nên sau giải phóng được trên chođi giữ rừng. Tánh không theo lời khuyên của Thanh. Ông không về Quảng Trị quêhương cưới vợ, sinh con mà quay lại Nam Cát Tiên với hy vọng một ngày nào đóHoàng Thanh sẽ trở lại tìm ông ở Tà Lài. Ngày ngày ông vẫn đến thăm cây Thiêntuế vòng đơn độc, để tìm lại hình bóng Hoàng Thanh, nơi hai người đã bắt đầucuộc trốn chạy khỏi kẻ ác.

Và Hoàng Thanh đã trở lạiTà Lài tìm ông. Lúc này Tánh đã vào cái tuổi sáu mươi lăm, hơn Thanh mười tuổi.Thanh đã ôm Tánh mà khóc vì tuyệt vọng, vì đau khổ, bởi suốt hai mươi lăm nămlặn lội khắp nơi vẫn không tìm được Bằng. Cho đến bây giờ trên các báo vẫn tiếptục đăng tin tìm mộ liệt sĩ. Hàng trăm nghìn chiến sĩ hy sinh vẫn nằm rải ráctrên khắp đất nước chưa tìm hết được. Nỗi đau khổ đó không riêng Thanh mà củachung tất cả những người mẹ, người vợ, người tình...

Thanh vẫn ở vậy chờ Bằngvà Tánh vẫn ở vậy chờ Thanh. Dịp gặp nhau bên gốc Thiên tuế trong rừng Nam CátTiên gần đây, Tánh những muốn kêu lên: “Thanh ơi ! Anh đã yêu em biết chừngnào. Ba mươi năm qua chỉ ước mơ gặp lại em để nói ra cái điều chưa nói được vớiem rằng anh yêu em. Anh yêu em trọn cả cuộc đời. Cho đến bạc phơ đầu vẫn chưanói được với em lời cuối, Thanh ơi !”.

Tánh chợt dằn mạnh cái vỏchai hết nhẵn rượu xuống vạt giường tre ọp ẹp, nói: “Con Ka Thinh mua cho tôimấy bài hát của ông Phan Huỳnh Điểu. Ông Điểu là ai mà hiểu tôi đến tận ruộtgan vậy? Con Ka Thinh vậy mà giỏi. Chồng bị tù vẫn nén đau khổ, làm việc, thămnuôi chồng chu đáo, lại còn lên truyền hình ca hát, lại dệt những tấm thổ cẩmđẹp cho đời... Còn tôi... Còn tôi”...

Hình như rượu đã ngấm,Tánh với tay bật cái nút pờ-lay. Giọng Bảo Yến lại vang lên ngọt ngào, thiếttha: “Những ngày không gặp nhau, biển bạc đầu thương nhớ...”.

Tánh bỗng nhìn tôi, đôimắt đỏ kè, ngấn nước và quát lên: “Sao? Làm sao?”. Rồi giọng đã nhừa nhựa, ônghỏi tôi: “Sao chưa có thằng cha nào làm bài thơ “Rừng bạc đầu thương nhớ...Hè?”.

Tánh lặng lẽ đưa hai bàntay thô ráp, chai sạn ôm lấy mái đầu bạc. Ông chợt gục xuống hỏi cái vỏ chai:“Bây giờ em vẫn ở dưới Biên Hòa chờ anh phải không Thanh?”...

(Theo Nhân dân hàng tháng)

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Truyện ngắn: Rừng bạc đầu thương nhớ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO